Công ước châu Âu về quyền con người 

Công ước châu Âu về Nhân quyền, tên chính thức là Công ước bảo vệ Nhân quyền và các quyền Tự do căn bản (tiếng Anh: Convention for the Protection of Human Rights and Fundamental Freedoms) là một hiệp ước quốc tế nhằm bảo vệ nhân quyền và các quyền tự do căn bản ở châu Âu. Công ước được soạn thảo năm 1950 bởi Ủy hội châu Âu mới được thành lập thời đó. Công ước này có hiệu lực từ ngày 3/9/1953. Mọi nước thành viên của Ủy hội châu Âu đều là các bên ký kết Công ước và các thành viên mới được mong đợi sẽ phê chuẩn Công ước khi có cơ hội sớm nhất. Trong bài viết này, Luật ACC sẽ cung cấp một số thông tin liên quan đến công ước Châu Âu về quyền con người. 

Kiến Nghị Kết Quả đấu Thầu Qua Mạng
Công ước châu âu về quyền con người

1. Tổng quan về công ước Châu Âu về quyền con người. 

Công ước Châu Âu về quyền con người hay Công ước châu Âu về Nhân quyền, tên chính thức là Công ước bảo vệ Nhân quyền và các quyền Tự do căn bản (tiếng Anh: Convention for the Protection of Human Rights and Fundamental Freedoms) là một hiệp ước quốc tế nhằm bảo vệ nhân quyền và các quyền tự do căn bản ở châu Âu. Công ước được ký kết vào ngày 04/11/1950, tại thủ đô Roma của nước Ý bởi Ủy hội châu Âu mới được thành lập thời đó, có hiệu lực từ ngày 03/9/1953.

Công ước này lập ra Tòa án Nhân quyền châu Âu. Bất cứ ai cảm thấy nhân quyền của mình bị xâm phạm bởi các nước ký kết Công ước đều có thể đưa vụ việc ra tòa án nói trên. Các phán quyết về những vi phạm nhân quyền buộc các nước liên quan phải có nghĩa vụ thi hành. Uỷ ban Bộ trưởng của Ủy hội châu Âu giám sát việc thi hành các phán quyết này, đặc biệt để đảm bảo việc thanh toán cho nguyên đơn số tiền bồi thường thiệt hại mà họ đã phải chịu, do Tòa án nhân quyền quyết định. Việc lập một tòa án để bảo vệ các cá nhân khỏi bị vi phạm nhân quyền là một đặc điểm mới cho một công ước quốc tế về nhân quyền, vì nó cho cá nhân vai trò tích cực trên trường quốc tế (theo truyền thống, chỉ các quốc gia mới được coi là chủ thể trong công pháp quốc tế). Công ước này hiện vẫn còn là thỏa ước quốc tế về nhân quyền duy nhất đưa ra việc bảo vệ cá nhân ở mức độ cao nhất như vậy. Các nước ký kết cũng có thể kiện các nước ký kết khác ra tòa án nói trên, tuy quyền này hiếm khi được dùng tới.

Công ước châu Âu về Nhân quyền có nhiều Nghị định thư. Ví dụ Nghị định thư 13 cấm án tử hình. Mặc dù ra đời có phần muộn màng, mới chỉ hơn 50 năm, nhưng Công ước được đánh giá có nhiều điểm tiến bộ trong việc bảo vệ quyền con người, đặc biệt là quyền của người bị buộc tội. Sự ra đời của Công ước là kết quả của sự thỏa hiệp giữa các nước thành viên của Cộng đồng Châu Âu (European Union - EU) thống nhất phê chuẩn Công ước là một phần của pháp luật Châu Âu, đồng thời là nền tảng cho việc giải thích và áp dụng pháp luật của từng quốc gia thành viên. Nội dung chủ yếu của Công ước bao gồm các điều khoản nhằm đảm bảo các quyền cơ bản của con người, như: Điều 3 Cấm tra tấn; Điều 4 Cấm chiếm hữu nô lệ, bắt lệ thuộc và lao động cưỡng bức; Điều 5 Quyền tự do và an toàn; Điều 6 Xét xử công bằng, trong đó có quyền của người bị buộc tội;…

2. Vấn đề bảo đảm quyền con người trong luật pháp của Châu Âu. 

Công ước Châu Âu về Bảo vệ quyền con người và Tự do cơ bản (The Convention for the Protection of Human Rights and Fundamental Freedoms - ECHR) được Hội đồng Châu Âu thông qua, có hiệu lực từ ngày 03/9/1953. Châu Âu là khu vực đi đầu trên thế giới trong việc xây dựng cơ chế bảo vệ quyền con người. Theo Nghị quyết 1031 (1994) của Hội đồng Nghị viện Châu Âu thì mọi quốc gia thành viên của Hội đồng Châu Âu (EC) đều phải tham gia công ước này. Văn kiện này còn được bổ sung bằng nhiều nghị định thư khác, trong đó nổi bật là Nghị định thư số 13: Tuyên bố xóa bỏ hoàn toàn hình phạt tử hình.

Bất cứ công dân nào bị xâm phạm bởi các nước đã ký kết Công ước đều có thể đưa vụ việc ra Tòa án Quyền con người Châu Âu. Các phán quyết về những vi phạm nhân quyền buộc các nước liên quan phải có nghĩa vụ thi hành, bồi thường thiệt hại cho nguyên đơn. Đây là điểm mới của Công ước, cho phép cá nhân có vai trò tích cực trên công pháp quốc tế (theo truyền thống, chỉ các quốc gia mới được coi là chủ thể). Công ước này hiện là thỏa ước quốc tế về nhân quyền duy nhất bảo vệ cá nhân ở mức độ cao nhất.

Trên bình diện quốc gia, trên cơ sở cơ chế chung của khu vực, các quốc gia Châu Âu đã hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về vấn đề nhân quyền. Đây là tiền đề pháp lý để công dân đấu tranh bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đồng thời là cơ sở, căn cứ để công dân đánh giá, kiểm tra, đối chiếu các hành vi từ phía Nhà nước và các thành viên trong xã hội. Như vậy, pháp luật không chỉ là công cụ, phương tiện của Nhà nước mà còn là công cụ, vũ khí của mọi công dân để thực hiện, bảo vệ quyền con người.

Ở hầu hết các nước Châu Âu, các cơ quan trong bộ máy Nhà nước như nghị viện (quốc hội), chính phủ, tòa án đều có vai trò bảo đảm việc thực hiện luật pháp quốc gia và các chuẩn mực quốc tế về quyền con người. Bộ máy chính quyền có nhiệm vụ duy trì trật tự, ổn định xã hội và bảo đảm quyền lợi của nhân dân, nghĩa là tất cả các nhánh quyền lực đều đóng vai trò nhất định trong việc thực thi quyền con người.

Bên cạnh đó, nhiều quốc gia đã hình thành các cơ quan độc lập tương đối với bộ máy Nhà nước để tăng cường hiệu quả bảo vệ và thúc đẩy quyền con người và được gọi chung là thể chế hoặc cơ quan quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người (National human rights institutions - NHRIs). Cơ chế quốc gia này xuất phát từ nghĩa vụ của các Nhà nước được nêu trong các văn kiện quốc tế về quyền con người và là một bảo đảm quan trọng cho sự phát triển toàn diện của chính công dân các nước. Hệ thống cơ quan quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người được tổ chức rất đa dạng, phong phú và không phải tất cả đều tuân thủ chặt chẽ những tiêu chuẩn được thông qua tại Nguyên tắc Paris.

Năm 2019, Ủy viên Nhân quyền của Hội đồng Châu Âu, ông Dunja Mijatović đã công bố báo cáo hoạt động thường niên(1). Báo cáo cung cấp một bức tranh tổng thể về các vấn đề, thách thức và cơ hội chính mà các nước Châu Âu đang phải đối mặt trong lĩnh vực nhân quyền. Thêm vào đó, đại dịch Covid-19 trong 02 năm 2020 và 2021 đang trở nên trầm trọng hơn các vấn đề và nhấn mạnh những điểm yếu của hệ thống bảo vệ nhân quyền của Châu Âu.

Ngày càng có nhiều thách thức đối với các tiêu chuẩn và nguyên tắc nhân quyền trên khắp lục địa. Trong một số trường hợp, sự thù địch đối với quyền con người là phổ quát, không thể chia cắt và ràng buộc về mặt pháp lý đã gia tăng, thúc đẩy một câu chuyện ăn mòn gây nguy hiểm cho các nguyên tắc và tiêu chuẩn mà Châu Âu đã xây dựng trong bảy thập kỷ qua.

Năm trong số các chủ đề được đề cập trong báo cáo này minh họa đặc biệt rõ ràng đang diễn ra ở Châu Âu: Thứ nhất, phân biệt chủng tộc; thứ hai, vấn đề di cư và tị nạn; thứ ba, bình đẳng giới; thứ tư, tự do ngôn luận và thứ năm, kiểm soát trí tuệ nhân tạo.

3. Các điều khoản của Công ước Châu Âu về quyền con người. 

Được tu chính bởi nghị định thư 11, Công ước gồm 3 phần. Các quyền và quyền tự do chính được nêu trong Mục I, trong đó bao gồm các điều từ 2 tới 18. Mục II (Điều 19-51) thiết lập Tòa án Nhân quyền châu Âu và các quy tắc hoạt động của nó. Phần III có quy định kết thúc khác nhau.

Trước khi Nghị định thư 11 có hiệu lực, Mục II (Điều 19) lập ra Ủy ban Nhân quyền châu Âu và Tòa án Nhân quyền châu Âu. Các mục III (Các điều 20 tới 37) và mục IV (Các điều 38 tới 59) bao gồm bộ máy cấp cao cho hoạt động của Ủy ban Nhân quyền và Tòa án. Còn Mục V có các quy định khác kết thúc khác nhau.

Rất nhiều điều khoản trong mục I được cấu trúc thành hai đoạn: đoạn đầu đưa ra một quyền cơ bản hoặc quyền tự do (chẳng hạn như Điều 2 (1) - quyền được sống), nhưng đoạn hai gồm các loại trừ, trường hợp ngoại lệ khác nhau hoặc các hạn chế về quyền cơ bản (chẳng hạn Điều 2 (2) – trong đó loại trừ một số việc sử dụng sức mạnh dẫn đến cái chết).

Điều 1 – tôn trọng các quyền

Điều 1 chỉ đơn giản buộc các bên ký kết phải bảo đảm các quyền quy định trong các điều khoản khác của Công ước trong "thẩm quyền pháp lý" của mình. Trong những trường hợp đặc biệt, thẩm quyền pháp lý có thể không chỉ giới hạn ở một lãnh thổ quốc gia của riêng nước ký kết, và bổn phận phải bảo đảm các quyền ghi trong Công ước cũng mở rộng ra lãnh thổ nước ngoài, chẳng hạn như đất đai chiếm đóng, trong đó Nhà nước thi hành việc kiểm soát cách hiệu quả.

Điều 2 - cuộc sống

Điều 2 bảo vệ quyền sống của mọi người. Đoạn đầu của điều khoản 2 có một ngoại lệ cho các việc xử tử hợp pháp; trong khi đoạn sau của điều khoản này quy định rằng cái chết gây ra do tự bảo vệ hay bảo vệ người khác, do việc bắt giữ một kẻ tình nghi hoặc kẻ trốn tránh, hoặc đàn áp các cuộc bạo loạn hay nổi loạn – thì không vi phạm điều khoản này, khi sử dụng vũ lực "không vượt quá mức tuyệt đối cần thiết".

Quyền này cũng không vi phạm Điều 15 của Công ước trong thời bình. Việc miễn trừ đối với các vụ xử tử hợp pháp tiếp tục bị hạn chế bởi các Nghị định thư 6 và 13 (xem bên dưới), đối với các bên cũng ký kết các Nghị định thư này.

Tòa án Nhân quyền châu Âu đã chưa hề phán quyết về quyền sống cho đến năm 1995, khi trong vụ McCann kiện Vương quốc Anh. Tòa đã phán quyết rằng trường hợp ngoại lệ ghi trong đoạn thứ hai của Điều 2 không bao gồm các tình huống được phép giết người, nhưng là các tình huống trong đó được phép sử dụng vũ lực có thể dẫn đến việc tước đoạt sự sống..Tòa án Nhân quyền đã phán quyết là các nước ký kết Công ước có 3 bổn phận chính theo điều 2: bổn phận kìm lại việc giết người bất hợp pháp, bổn phận điều tra những cái chết đáng nghi và, trong một số trường hợp, có bổn phận tích cực phòng chống việc thiệt hại sinh mạng có thể dự đoán được.

Điều 3 – Tra tấn

Điều 3 cấm tra tấn, và "trừng phạt hoặc đối xử vô nhân đạo hoặc làm mất phẩm giá". Không có các ngoại lệ và hạn chế về quyền này. Quy định này thường được áp dụng - ngoài việc tra tấn – cho các trường hợp bạo lực nghiêm trọng của cảnh sát và các điều kiện tồi tệ ở nơi giam giữ.

Tòa án Nhân quyền đã nhấn mạnh tính chất cơ bản của Điều 3 khi cho rằng việc cấm đoán được quy định bằng "các lời lẽ tuyệt đối... bất kể hạnh kiểm của nạn nhân". Tòa án cũng cho rằng các quốc gia không thể trục xuất hoặc dẫn độ các cá nhân có thể là đối tượng bị tra tấn, trừng phạt hoặc đối xử vô nhân đạo hay làm mất phẩm giá ở nước nhận họ.

Ban đầu Tòa án đã có quan niệm hạn chế về thế nào là tra tấn, thường coi rằng các nước đã áp đặt việc đối xử vô nhân đạo, làm mất phẩm giá. Do đó, tòa án cho rằng các cách thức như không cho nạn nhân ngủ, bắt phải nghe tiếng ồn cường độ cao và bắt họ phải đứng sát vào một bức tường tay chân dang ra trong thời gian dài, không phải là tra tấn. Trên thực tế, tòa án chỉ xét thấy một nước đã phạm tội tra tấn năm 1996 trong vụ một người tù bị treo 2 cánh tay lên trong khi 2 cổ tay bị trói quặt sau lưng. Từ đó Tòa án đã tỏ ra rộng rãi hơn trong việc coi các nước là phạm tội tra tấn và thậm chí còn phán quyết rằng vì Công ước này là một "công cụ sống", nên việc đối xử mà trước đó đã mô tả như là vô nhân đạo hoặc làm mất phẩm giá thì trong tương lai có thể bị coi là tra tấn. 

Điều 4 - Nô lệ

Điều 4 cấm chiếm hữu nô lệ, bắt lệ thuộc và lao động cưỡng bách, nhưng ngoại trừ việc lao động:

  • được làm như một phần bình thường của án phạt tù,
  • ở dạng nghĩa vụ quân sự bắt buộc hay việc làm như là một thay thế bởi do những người chống đối nghĩa vụ quân sự vì lương tâm
  • đòi phải làm trong tình trạng khẩn cấp, và
  • được coi như một phần "nghĩa vụ dân sự" bình thường của một người

Điều 5 - Tự do và an toàn

Điều 5 quy định rằng mọi người đều có quyền tự do và an toàn cá nhân. Tự do và an toàn cá nhân được coi như một "ý niệm kép" – Tòa án đã giải thích rằng: tự do và an toàn cá nhân không thể tách biệt nhau.

Điều 5 đưa ra quyền tự do, đối tượng chỉ bị bắt giữ hay giam cầm hợp pháp trong một số hoàn cảnh nhất định khác, chẳng hạn như bắt giữ vì nghi ngờ phạm tội hay giam cầm để thi hành một bản án. Điều khoản này cũng đưa ra quyền được thông báo bằng một ngôn ngữ mà người đó hiểu được về những lý do của việc bắt giữ và mọi cáo buộc chống lại họ; quyền nhanh chóng tiếp cận các thủ tục tư pháp để xác định tính hợp pháp của vụ bắt giữ hoặc giam cầm và xét xử trong một thời gian hợp lý hoặc thả ra trong khi chờ xét xử; cùng quyền được bồi thường trong trường hợp việc bắt giữ hoặc giam cầm là vi phạm điều khoản này.

Điều 6 – Xét xử công bằng

Điều 6 đưa ra quyền được xét xử công bằng cách chi tiết, trong đó có quyền được xét xử công khai trước một tòa án độc lập và không thiên vị trong thời gian hợp lý, quyền được coi là vô tội khi chưa có phán quyết của tòa án, và các quyền tối thiểu khác đối với những người bị cáo buộc một tội hình sự (đủ thời gian và các điều kiện để chuẩn bị việc biện hộ bảo vệ họ, tiếp cận với đại diện pháp luật, quyền thẩm vấn các nhân chứng chống lại họ, quyền được có thông dịch viên miễn phí).

Đa số các vi phạm Công ước mà nay Tòa án Nhân quyền tìm thấy là sự chậm trễ xét xử quá mức, vi phạm các yêu cầu về "thời gian hợp lý", trong thủ tục tố tụng dân sự và hình sự trước các tòa án quốc gia, phần lớn ở Ý và Pháp. Theo đòi hỏi một "tòa án độc lập", Tòa án Nhân quyền châu Âu đã phán quyết rằng các thẩm phán quân sự tại tòa án an ninh quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ không phù hợp với Điều 6. Để phù hợp với Điều khoản này, ngày nay Thổ Nhĩ Kỳ đã thông qua một đạo luật bãi bỏ các tòa án này.

Các vi phạm đáng kể khác liên quan đến "điều khoản đối chất" của Điều 6 (tức là quyền thẩm vấn các nhân chứng hoặc để họ đối chất). Về mặt này, các vấn đề về sự phù hợp với Điều 6 có thể phát sinh khi luật pháp quốc gia cho phép sử dụng trong các bằng chứng về các lời khai của nhân chứng vắng mặt, nhân chứng vô danh và dễ bị lung lạc.

Điều 7 - hiệu lực hồi tố

Cấm chuyển thành án hình sự có hiệu lực hồi tố các hành động và những việc bỏ sót. Không ai có thể bị phạt về một hành động không bị coi là tội hình sự vào thời điểm vi phạm. Điều khoản này nói rõ rằng một tội hình sự là tội mà luật quốc gia hoặc luật quốc tế, cho phép một bên ký kết truy tố người nào về một tội không phải là bất hợp pháp theo luật quốc gia sở tại vào thời điểm đó, miễn là công pháp quốc tế có cấm. Điều khoản này cũng cấm áp đặt hình phạt quá nặng hơn hình phạt được áp dụng vào thời điểm phạm tội.

Điều 8 - sự riêng tư

Điều 8 quy định mọi người có quyền được tôn trọng "cuộc sống riêng tư, gia đình, nhà cửa và "sự riêng tư của thư" của mình, tùy theo một số hạn chế "phù hợp với pháp luật "và "cần thiết trong một xã hội dân chủ". Điều khoản này rõ ràng đưa ra một quyền không bị khám xét bất hợp pháp, nhưng Tòa án đã đưa ra việc bảo vệ "cuộc sống riêng tư và gia đình", mà điều khoản này đưa ra việc giải thích rộng rãi, chẳng hạn như việc cấm các hành vi đồng tính luyến ái riêng tư có ưng thuận là vi phạm điều khoản này. Điều này có thể được so sánh với lý thuyết luật học của Tòa án tối cao Hoa Kỳ, nơi cũng đã chấp thuận một giải thích hơi rộng về quyền riêng tư. Hơn nữa, điều 8 đôi khi cũng bao gồm các bổn phận tích cực: trong khi mà nhân quyền cổ điển được diễn đạt như việc cấm một nhà nước không được can thiệp vào các quyền, và do đó không làm điều gì (ví dụ, không chia cách gia đình dưới sự bảo vệ cuộc sống gia đình), việc được hưởng thực sự các quyền như vậy cũng có thể bao hàm việc nhà nước phải tích cực, và làm việc gì đó (ví dụ buộc (ai) phải cho người cha ly dị được quyền gặp con mình.

Điều 9 – lương tâm và tôn giáo

Điều 9 quy định quyền tự do tư tưởng, tự do lương tâm và tự do tôn giáo. Điều này bao gồm việc tự do thay đổi tôn giáo hay tín ngưỡng, và để biểu lộ một tôn giáo hay tín ngưỡng thờ phượng, giảng dạy, thực hành và chấp hành, tùy theo một số hạn chế "phù hợp với pháp luật" và "cần thiết trong một xã hội dân chủ"

Điều 10 – ngôn luận

Điều 10 quy định quyền tự do ngôn luận, tùy theo một số hạn chế "phù hợp với luật pháp" và "cần thiết trong một xã hội dân chủ". Quyền này bao gồm sự tự do giữ ý kiến, và để nhận cùng truyền đạt thông tin và ý tưởng.

Điều 11 - lập hội

Điều 11 bảo vệ quyền tự do lập hội lập hội họp, trong đó có quyền lập công đoàn, tùy theo một số hạn chế "phù hợp với pháp luật" và "cần thiết trong một xã hội dân chủ".

Điều 12 - kết hôn

Điều 12 quy định quyền cho các phụ nữ và người nam ở tuổi có thể kết hôn được kết hôn và lập gia đình.

Mặc dù có nhiều lời mời, cho đến nay Tòa án Nhân quyền đã khước từ việc áp dụng sự bảo vệ của điều khoản này cho hôn nhân đồng giới. Tòa án đã bảo vệ việc khước từ này với lý do là điều khoản này nhằm chỉ áp dụng cho các cuộc hôn nhân khác giới tính, và rằng một giới hạn rộng của sự nhận xét phải được đưa ra cho các bên trong lĩnh vực này..

Điều 13 - biện pháp sửa chữa hữu hiệu

Điều 13 đưa ra quyền có biện pháp sửa chữa hữu hiệu trước các giới chức chính quyền quốc gia về những vi phạm các quyền theo Công ước này. Việc không có khả năng đạt được biện pháp sửa chữa trước một tòa án quốc gia về việc vi phạm một quyền theo Công ước như vậy là một sự vi phạm Công ước riêng rẽ, có thể kiện .

Điều 14 – phân biệt đối xử

Điều 14 gồm việc cấm phân biệt đối xử. Việc cấm này là rộng rãi trong một số cách, và thu hẹp trong những cách khác. Nó rộng ở chỗ nó cấm phân biệt đối xử theo một số lượng tiềm tàng không giới hạn các nguyên nhân. Trong khi điều khoản này đặc biệt nghiêm cấm phân biệt đối xử dựa trên "giới tính, chủng tộc, màu da, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc ý kiến khác, nguồn gốc quốc gia hay xã hội, gắn với một thiểu số quốc gia, nơi sinh, hay thân phận khác", mục cuối cùng trong số này (tức thân phận khác) cho phép các tòa án mở rộng việc bảo vệ của điều 14 sang các nguyên nhân khác không nêu cụ thể như đã được thực hiện liên quan đến phân biệt đối xử dựa trên khuynh hướng tình dục của một người.

Đồng thời việc bảo vệ của điều khoản này được giới hạn, trong đó chỉ cấm phân biệt đối xử đối với các quyền theo Công ước. Do đó, người nộp đơn phải thử kiện việc phân biệt đối xử trong một quyền cụ thể được đảm bảo ở điều khoản khác trong Công ước (ví dụ như phân biệt đối xử dựa trên giới tính - Điều 14 - hay quyền tự do phát biểu - Điều 10).

Nghị định thư 12 mở rộng lệnh cấm này để bao gồm cả phân biệt đối xử trong bất cứ quyền hợp pháp nào, ngay cả khi có quyền hợp pháp đó không được bảo vệ theo Công ước, miễn là nó được quy định trong luật pháp quốc gia.

Điều 15 - miễn thi hành

Điều 15 cho phép các quốc gia ký kết Công ước miễn thi hành một số quyền được đảm bảo bởi Công ước trong thời gian "chiến tranh hoặc tình trạng khẩn cấp công cộng khác đe dọa cuộc sống của dân tộc". Các miễn trừ được phép theo Điều 15 phải đáp ứng ba điều kiện quan trọng:

  • phải là tình trạng khẩn cấp công cộng đe dọa cuộc sống dân tộc
  • mọi biện pháp để đáp ứng (tình hình) phải do "đòi hỏi nghiêm ngặt của các nhu cầu cấp bách của tình hình", và
  • những biện pháp để đáp ứng với tình hình, phải phù hợp với một nghĩa vụ khác của quốc gia theo luật quốc tế

Điều 16 - ngoại kiều

Điều 16 cho phép các nước hạn chế các hoạt động chính trị của các người nước ngoài. Tòa án đã phán quyết rằng các nước thành viên Liên minh châu Âu không thể coi các công dân của các nước thành viên khác là những ngoại kiều

Điều 17 - lạm dụng quyền

Điều 17 quy định là không ai được sử dụng các quyền được đảm bảo bởi Công ước này để tìm kiếm việc bãi bỏ hoặc hạn chế các quyền được bảo đảm trong Công ước. Điều này nói về các trường hợp cá biệt mà các nước tìm cách hạn chế một quyền con người nhân danh một quyền con người khác, hoặc nơi mà các cá nhân dựa vào một quyền con người để làm suy yếu một quyền con người khác (ví dụ nơi mà một cá nhân đưa ra sự đe dọa giết người).

Điều 18 – các hạn chế được cho phép

Điều 18 quy định rằng mọi hạn chế các quyền quy định trong Công ước chỉ có thể được sử dụng cho mục đích mà chúng được quy định. Ví dụ, Điều 5, đảm bảo quyền tự do cá nhân, có thể bị hạn chế cách dứt khoát nhằm đưa một kẻ tình nghi ra trước một thẩm phán. Để sử dụng việc tạm giam trước khi xét xử như một phương tiện hăm dọa một người dưới một cớ sai trái, do đó là một hạn chế quyền (tự do) mà không phục vụ một mục đích được quy định rõ ràng (sẽ được đưa ra trước một thẩm phán), và do đó trái với Điều 18.

Trên đây là nội dung bài viết của Luật ACC về “Công ước Châu Âu về quyền con người”. Bài viết trên là những thông tin cần thiết mà quý độc giả có thể áp dụng vào đời sống thực tiễn. Trong thời gian tham khảo nếu có những vướng mắc hay thông tin nào cần chia sẻ hãy chủ động liên hệ và trao đổi cùng luật sư để được hỗ trợ đưa ra phương án giải quyết cho những vướng mắc pháp lý mà khách hàng đang mắc phải. 

 

Nội dung bài viết:

    Đánh giá bài viết: (801 lượt)

    Để lại thông tin để được tư vấn

    Họ và tên không được để trống

    Số điện thoại không được để trống

    Số điện thoại không đúng định dạng

    Email không được để trống

    Vấn đề cần tư vấn không được để trống

    Bài viết liên quan

    Phản hồi (0)

    Hãy để lại bình luận của bạn tại đây!

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo