Trong lĩnh vực pháp lý về thừa kế, bản án tranh chấp thừa kế theo di chúc đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết những tranh chấp phức tạp liên quan đến tài sản và di chúc. Bài viết này sẽ đưa ra cái nhìn tổng quan về những bản án đáng chú ý và cung cấp thông tin hữu ích cho những người quan tâm đến lĩnh vực này.
Các bản án tranh chấp thừa kế theo di chúc
Tranh chấp thừa kế theo di chúc
Hiện nay, ngày càng nhiều vụ tranh chấp thừa kế nhà ở xảy ra và thường liên quan đến bản di chúc. Trong thực tế, có hai dạng chính của tranh chấp thừa kế nhà ở theo di chúc:
-
Tranh chấp về Hình Thức và Nội Dung của Bản Di Chúc: Trong phần này, tranh chấp có thể xuất phát từ sự không rõ ràng hoặc mâu thuẫn về hình thức và nội dung của bản di chúc. Các vấn đề về ngôn ngữ, điều khoản, và ý định thừa kế có thể gây ra tranh cãi giữa các bên liên quan.
-
Tranh Chấp về Việc Thực Hiện Di Chúc với Di Sản là Nhà Ở: Tranh chấp trong phần này thường xuất phát khi các bên liên quan không đồng ý với cách thức thực hiện di chúc đối với tài sản là nhà ở. Các vấn đề về quản lý, sử dụng, và phân chia di sản nhà ở có thể tạo ra mâu thuẫn và đưa đến quá trình tranh chấp.
Giải Quyết Tranh Chấp Thừa Kế Nhà Ở Theo Di Chúc: Quá trình giải quyết tranh chấp thừa kế nhà ở theo di chúc thường đòi hỏi sự can thiệp của Tòa án. Bản án tranh chấp thừa kế là quyết định của Tòa án về việc giải quyết tranh chấp liên quan đến di chúc và tài sản nhà ở. Nó sẽ xác định quyền lợi và trách nhiệm của từng bên và quyết định cách thức chia tài sản.
Tổng hợp các bản án tranh chấp thừa kế theo di chúc thực tế
Tổng hợp các bản án tranh chấp thừa kế theo di chúc thực tế
Bản án về tranh chấp thừa kế theo di chúc số 14/2017/DSST ngày 28/09/2017
Trong đơn khởi kiện ngày 13/6/2017 và bản tự khai ngày 28/6/2017, bà Hoàng Thị H đã trình bày về tình hình hôn nhân và khối tài sản chung với ông Hoàng Minh X. Cụ thể, họ kết hôn khoảng năm 1960 và có bốn người con, trong đó có Hoàng Tuyết H, Hoàng Hồng H1, Hoàng Quốc H2 và Hoàng Quốc H3. Khối tài sản chung bao gồm thửa đất, ngôi nhà, bếp, chuồng trại, và các tài sản khác đã được Hội đồng thẩm định và định giá vào ngày 21/8/2017.
Bản di chúc chung của ông X và bà H được lập ngày 10/8/2015, trong đó nếu ông X qua đời trước bà, di chúc sẽ giao lại cho bà quản lý tài sản, sau đó chuyển cho con trai là Hoàng Hồng H1. Tuy nhiên, sau khi ông X qua đời vào ngày 12/01/2016, anh H, con trai của bà, không công nhận bản di chúc và đưa ra quan điểm rằng đó không phải là chữ viết của ông X. Bà Hoàng Thị H yêu cầu Tòa án công nhận di chúc là hợp pháp và thay đổi nội dung di chúc để được chia tài sản chung.
Anh Hoàng H, người con của ông X và bà H, đã thay đổi quan điểm của mình tại phiên tòa, đề xuất chia nửa tài sản chung và xin được hưởng kỷ phần của ông X bằng quyền sử dụng đất. Anh không công nhận di chúc là hợp pháp, nhưng cũng không có chứng cứ chứng minh rằng chữ viết và chữ ký trong di chúc không phải của ông X.
Các anh em khác, Hoàng Quốc H2 và Hoàng Quốc H3, đều xác nhận về quyền sử dụng tài sản chung của bố mẹ và không có ý kiến phản đối. Một số yếu tố khác cũng được đề cập đến trong vụ án, như việc bản di chúc không được chứng thực và không có sự đồng thuận giữa các con về việc chia tài sản.
Tòa án đã công nhận di chúc là hợp pháp dựa trên việc ông X và bà H đều tỉnh táo và minh mẫn khi lập di chúc. Kết luận giám định của Công an tỉnh Phú Thọ cũng chứng minh chữ ký và chữ viết trong di chúc là của ông X. Do đó, Tòa án đã quyết định công nhận di chúc là hợp pháp và không chấp nhận yêu cầu chia tài sản của anh H và anh H2. Bà Hoàng Thị H không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, và anh H1 và anh H2 phải chịu án phí tương ứng.
Bản án 14/2018/DSST ngày 13/11/2018 về tranh chấp thừa kế theo di chúc
Trong đơn khởi kiện ngày 15/01/2018 và lời khai tại Tòa án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị B đã trình bày rằng bố chị, ông Nguyễn Đức H, đã qua đời năm 1998, mẹ chị, bà Vi Thị K, qua đời năm 2017. Bố mẹ chị có sáu người con, trong đó có chị Nguyễn Thị C, chị Nguyễn Thị M, anh Nguyễn Văn L (đã qua đời năm 2013, để lại con trai Nguyễn Văn Đ), anh Nguyễn Văn T, chị Nguyễn Thị L. Bố mẹ chị được quyền sử dụng thửa đất số 283, tờ bản đồ 60, tại khu 13, xã Đ, huyện C, tỉnh Phú Thọ.
Trước khi bố chị qua đời, ông đã chia phần đất cho anh Nguyễn Văn T. Sau đó, mẹ chị được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 1447,2 m2 vào năm 2010. Năm 2012, mẹ chị tặng cho cháu Nguyễn Văn Đ một phần đất và giữ lại 576,2 m2 (trong đó có 80 m2 đất ở và 496,2 m2 đất lâu năm khác).
Ngày 10/5/2016, mẹ chị tổ chức họp gia đình để quyết định việc thừa kế đất. Mẹ chị đã tặng toàn bộ 576,2 m2 cho chị Nguyễn Thị B với điều kiện chị phải chăm sóc, nuôi dưỡng mẹ khi còn sống và lo tang lễ khi mẹ qua đời. Tuy nhiên, sau cuộc họp, chị Nguyễn Thị C không đồng ý với việc cháu Nguyễn Văn Đ chưa nhận được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, và không ký biên bản. Ngày 05/9/2016, mẹ chị đến UBND xã Đ để lập di chúc với nội dung để lại 576,2 m2 cho chị B.
Sau khi mẹ chị qua đời vào ngày 18/8/2017, chị B đề nghị họp gia đình để mở di chúc, nhưng không có sự đồng ý của mọi người. Ngày 01/11/2017, chị B đề nghị UBND xã Đ mở di chúc, nhưng cháu Nguyễn Văn Đ, bà Nguyễn Thị M, bà Nguyễn Thị C không đồng ý với nội dung di chúc.
Chị B yêu cầu Tòa án công nhận di chúc của mẹ chị là hợp pháp để được thừa kế toàn bộ diện tích đất theo di chúc. Người đối diện, đơn chị Nguyễn Thị M, đơn chị Nguyễn Thị C, và anh Nguyễn Văn T không công nhận bản di chúc và đề xuất phương án chia tài sản theo biên bản họp gia đình ngày 05/9/2014.
UBND xã Đ đã chứng thực bản di chúc của bà Vi Thị K vào ngày 05/9/2016 và xác nhận rằng quá trình chứng thực đúng quy định pháp luật.
Tòa án, sau khi xem xét hồ sơ và chứng cứ, đưa ra quyết định nhận định rằng bản di chúc của bà K là hợp pháp và chị Nguyễn Thị B có quyền thừa kế toàn bộ diện tích đất theo di chúc.
Trong quyết định, Tòa án cũng chỉ ra rằng các đơn chị Nguyễn Thị M, Nguyễn Thị C, và anh Nguyễn Văn T không có căn cứ để không công nhận di chúc và đề xuất phương án chia tài sản. Các ý kiến này không tuân theo quy định pháp luật và bản di chúc đã được chứng thực đúng quy trình.
Tòa án cũng nêu rõ diện tích đất còn lại của bà Vi Thị K là 345,4 m2, và chị Nguyễn Thị B được quyền sử dụng toàn bộ diện tích này.
Đối với án phí và chi phí tố tụng, quyết định yêu cầu chị Nguyễn Thị M và chị Nguyễn Thị C phải chịu án phí và chi phí tố tụng theo quy định của pháp luật.
Cuối cùng, Tòa án hoàn lại số tiền tạm ứng án phí cho chị Nguyễn Thị B và quyết định án phí đối với chị Nguyễn Thị M và chị Nguyễn Thị C.
Đây là tóm tắt và viết lại nội dung của đoạn văn bạn đã đưa ra.
Bản án về tranh chấp quyền chia thừa kế theo di chúc số 187/2021/DSPT
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang
Tóm tắt nội dung:
Theo bản án sơ thẩm, vụ án liên quan đến di chúc của bà Nguyễn Thị X (1930-2016), bao gồm 3 thửa đất ở huyện Cai Bè, tỉnh Tiền Giang. Bản án sơ thẩm đã không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn Trần Thị N về việc hủy tờ hủy bỏ di chúc lập ngày 10/11/2014, công nhận tờ di chúc ngày 20/6/2012 và yêu cầu chia toàn bộ tài sản theo tờ di chúc ngày 20/6/2012.
Tuy nhiên, trong phiên tòa phúc thẩm, ông Trần Văn H đã cung cấp biên nhận ngày 01/10/2015 thể hiện nội dung bà Nguyễn Thị X đã nhượng một phần diện tích đất cho anh Mai Thanh T. Tuy nhiên, anh Mai Thanh T không được đưa vào tham gia tố tụng, điều này được xem xét là tình tiết mới phát sinh. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định hủy án sơ thẩm và giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo thủ tục chung.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm đã nhận định rằng tờ di chúc ngày 20/6/2012 của bà Nguyễn Thị X là phù hợp với quy định pháp luật, nhưng chưa có chứng cứ hợp lệ, do đó không đảm bảo giá trị pháp lý. Án sơ thẩm đã bị hủy và yêu cầu giải quyết lại theo thủ tục chung.
Cuối cùng, đối với án phí, nguyên đơn Trần Thị N không phải nộp án phí dân sự phúc thẩm và được hoàn lại số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm.
Bản án về tranh chấp chia thừa kế theo di chúc số 11/2021/DS-ST
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang
Tóm tắt nội dung:
Vụ án xoay quanh tranh chấp thừa kế và di chúc trong gia đình ông Phùng Trung T. Ông khởi kiện để đòi lại quyền thừa kế theo di chúc của ông nội Phùng Văn A1. Tòa án đã chấp nhận yêu cầu của ông Phùng Trung T, công nhận di chúc hợp pháp, và quyết định chia di sản theo di chúc. Ông được đồng thuận là chủ sở hữu của ½ căn nhà và đất tại Đường T, Phường H, thành phố M, tỉnh Tiền Giang, theo quy định của di chúc. Án tuyên ngày 29 tháng 4 năm 2021.
Bản án về tranh chấp chia thừa kế theo di chúc số 382/2023/DS-PT
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang
Tóm tắt nội dung:
Vụ án liên quan đến di chúc của cụ Lê Thị B và phần thừa kế, đất và nhà. Cụ B để lại 1.416m² đất và căn nhà 82,47m² cho bốn người con. Cụ B mất, bà H1 và bà H yêu cầu chia thừa kế theo di chúc. Ông H2 đã nhận 2.010m² đất và căn nhà, còn lại 1.416m² đất đang tranh chấp.
Tòa án sơ thẩm quyết định chia đất cho bà H1 và bà H, nhưng ông H2 kháng cáo yêu cầu giữ lại 611,1m² đất và căn nhà. Người có quyền lợi liên quan không đồng ý. Tòa án phúc thẩm giữ nguyên quyết định sơ thẩm, nhưng không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà H1 và bà H.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông H3 không yêu cầu ông H2 hoàn lại giá trị đất. Viện kiểm sát đề nghị sửa bản án, đình chỉ yêu cầu kháng cáo của bà H1 và bà H, chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông H2. Ông H3 đồng ý không yêu cầu ông H2 hoàn lại giá trị đất.
Tòa án quyết định chấp nhận một phần kháng cáo của bà H1, bà H và ông H3, nhưng giữ nguyên yêu cầu kháng cáo của ông H2. Sửa bản án sơ thẩm và quyết định về phần chia đất cho từng người. Miễn án phí cho bà H1, bà H, ông H2, ông H3. Hoàn lại tiền tạm ứng án phí dân sự cho bà H1 và bà H.
Câu hỏi thường gặp
Câu Hỏi: Quyền khởi kiện tranh chấp về phân chia di sản thừa kế là gì?
Trả Lời: Quyền khởi kiện tranh chấp về phân chia di sản thừa kế phụ thuộc vào quy định của luật. Có hai hình thức thừa kế là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Người có quyền thừa kế theo di chúc là những người được chỉ định trong di chúc, trong khi người có quyền thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự hàng thừa kế.
Câu Hỏi: Ai có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về thừa kế?
Trả Lời: Theo quy định tại Điều 26 BLTTDS năm 2015, tranh chấp về thừa kế tài sản thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Tùy thuộc vào vị trí của bất động sản, tranh chấp có thể được giải quyết bởi TAND cấp huyện hoặc TAND cấp tỉnh.
Câu Hỏi: Thời hiệu khởi kiện tranh chấp tài sản thừa kế là bao lâu?
Trả Lời: Theo Điều 623 BLDS năm 2015, thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản và 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này, di sản sẽ thuộc về người thừa kế đang quản lý.
Câu Hỏi: Có những ai thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo quy định của luật?
Trả Lời: Hàng thừa kế thứ nhất bao gồm vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. Những người này được ưu tiên nhận phần di sản và nếu cùng hàng, họ sẽ hưởng bằng nhau. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước đó.
Nội dung bài viết:
Bình luận