Trong quá trình chia thừa kế, thường xuyên gặp phải những thách thức pháp lý, đặc biệt là khi một số bên liên quan đến sự vắng mặt của người thừa kế. Bài viết này sẽ đề cập đến cách giải quyết những tình huống chia thừa kế vắng mặt này và tìm kiếm những giải pháp pháp lý linh hoạt.Chia di sản thừa kế khi vắng mặt người trong hàng thừa kế
Điều kiện trở thành người thừa kế là gì?
Dựa trên Điều 613 của Bộ luật Dân sự 2015, người thừa kế được xác định như sau:
Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc đã sinh ra và tiếp tục sống sau thời điểm mở thừa kế, tuy nhiên, họ đã được thai nghén trước khi người để lại di sản qua đời. Nếu người thừa kế theo di chúc không phải là cá nhân, thì họ cũng phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Theo quy định này, người thừa kế được định nghĩa là những cá nhân sống sót tại thời điểm diễn ra sự mở thừa kế. Trong trường hợp con cái của người để lại di sản qua đời trước hoặc đồng thời với người để lại di sản, cháu sẽ được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu sẽ được nhận theo quy định của Thừa kế thế vị, như quy định tại Điều 652 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Chia di sản thừa kế khi vắng mặt người trong hàng thừa kế?
Giải quyết vấn đề phân chia thừa kế trở nên thiết yếu khi các bên liên quan không thể tự thương lượng hoặc một số thành viên gia đình không đồng lòng, từ chối hợp tác hoặc thậm chí rời khỏi địa phương. Trong nhiều trường hợp, gia đình đối mặt với tình trạng bế tắc, không thể đạt được sự đồng thuận, dẫn đến quá trình phân chia thừa kế kéo dài mà không có giải pháp.
Nếu quá trình này kéo dài, hậu quả có thể rất tiêu cực, tài sản trở nên không sử dụng được, không thể giao dịch, và với thời gian, có thể mất hết thời hiệu. Sự mâu thuẫn ngầm giữa các bên ngày càng gia tăng, khiến cho việc giải quyết trở nên khó khăn và có thể dẫn đến sự phát sinh của những mâu thuẫn mới.
Trong tình huống này, việc duy nhất còn lại cho các bên là đưa vấn đề ra Tòa án để có một quyết định chính thức. Trong trường hợp một thành viên gia đình vắng mặt, các bên có thể đề xuất Tòa án giải quyết vấn đề mặc dù người đó không có mặt, thông qua việc niêm yết tại địa phương cư trú hoặc thực hiện thủ tục thông báo vắng mặt và tuyên bố mất tích.
Quyền lợi của người vắng mặt sẽ được giải quyết theo quy định của pháp luật. Sau khi có bản án, quyền lợi của các bên trở nên rõ ràng và có căn cứ pháp luật, từ đó họ có thể yêu cầu thi hành án để bảo vệ quyền lợi và lợi ích của mình. Điều này giúp tạo nên một giải pháp hợp lý và công bằng cho mọi bên liên quan trong quá trình phân chia thừa kế.
Thỏa thuận phân chia di sản thừa kế khi vắng mặt 01 trong những người thừa kế được quy định như thế nào?
Thỏa thuận phân chia di sản thừa kế khi vắng mặt 01 trong những người thừa kế được quy định như thế nào?
Để xử lý trường hợp này, có thể thực hiện văn bản thỏa thuận về phân chia di sản thừa kế của các đồng thừa kế, theo quy định tại Điều 659 và Điều 660 của Bộ luật Dân sự 2015. Đồng thời, có khả năng thỏa thuận về việc các thừa kế đồng ý tặng phần di sản mà họ nhận được.
Sau đó, để công chứng văn bản thỏa thuận này, cần sự đồng ý của tất cả các đồng thừa kế, theo quy định tại Điều 57 của Luật Công chứng 2014. Lưu ý rằng người thừa kế không được thuộc vào các trường hợp không có quyền hưởng di sản theo quy định tại Điều 621, và cũng không được từ chối nhận di sản theo Điều 620 của Bộ luật Dân sự 2015.
Câu hỏi thường gặp:
Em có một số vướng mắc mong các luật sư tư vấn giúp.
1. Hiện nay gia đình đang yêu cầu Tòa án chia di sản thừa kế ông bà để lại. Tuy nhiên trong các người con thì có 1 cô đã biệt tích khoảng hơn 20 năm (biệt tích từ hồi ông bà còn sống). Gia đình trước chưa yêu cầu tòa án tuyên bố mất tích hoặc chết. Như vậy gia đình có thể yêu cầu tòa án chia di sản thừa kế theo pháp luật được ngay không hay là phải thực hiện thủ tục yêu cầu tòa án tuyên bố đã chết trước. Và căn cứ cụ thể cho vấn đề này.
2. Cụ bà mất năm 1985 và cụ ông mất năm 2004. Tài sản 2 ông bà để lại là quyền sử dụng đất. Theo pháp lệnh thừa kế năm 1990 thì quyền sử dụng đất không phải là di sản thừa kế. Vậy khi cụ bà chết năm 1985 quyền sử dụng đất thuộc quyền sử dụng, sở hữu của cụ ông toàn bộ hay chỉ được quyền sử dụng, sở hữu 1 nửa mảnh đất trên. Việc cụ ông để lại toàn bộ mảnh đất trên (không phải 1 nửa) có hợp pháp không?. Gia đình hiện nay có khởi kiện chia phần di sản của bà để lại hay không. Các căn cứ pháp lý cụ thể
Mong các luật sư sớm hồi đáp.
Trân Trọng!
Luật sư giải đáp:
Chào bạn,
Tôi có mấy ý trả lời bạn như sau:
1) Về việc chia thừa kế quyền sử dụng đất của ông, bà để lại:
Bạn cần phân biệt 03 thủ tục: khai nhận di sản thừa kế; thỏa thuận phân chia di sản thừa kế; và khởi kiện yêu cầu phân chia di sản thừa kế.
- Khai nhận di sản thừa kế: "Người duy nhất được hưởng di sản theo pháp luật hoặc những người cùng được hưởng di sản theo pháp luật nhưng thỏa thuận không phân chia di sản đó có quyền yêu cầu công chứng văn bản khai nhận di sản." (Điều 58 Luật Công chứng)
- Thỏa thuận phân chia di sản thừa kế: "Những người thừa kế theo pháp luật hoặc theo di chúc mà trong di chúc không xác định rõ phần di sản được hưởng của từng người thì có quyền yêu cầu công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản." (Điều 57 Luật công chứng).
Đối với hai trường hợp nêu trên phải có văn bản xác nhận của chính quyền địa phương về mối quan hệ của những người được hưởng di sản và người để lại di sản. Trường hợp cô bạn đã mất tích nhưng chưa có tuyên bồ mất tích hay chết của Tòa án thì không thể thực hiện thủ tục trên được.
- Khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế:
Khi khởi kiện yêu cầu Tòa án phân chia di sản thừa kế thì Tòa án phải đưa những người đồng thừa kế tham gia tố tụng. ViệcTòa giải quyết bỏ sót người thừa kế là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Bản án sẽ bị hủy nếu có kháng cáo, kháng nghị.
Cô bạn đã mất tích 20 mươi năm, thì trước khi khởi kiện bạn phải làm thủ tục yêu cầu Tòa án tuyên bố cô bạn mất tích, chết, sau đó mới thực hiện việc khởi kiện.
2) Về việc cụ ông có được hưởng di sản quyền sử dụng đất của cụ bà để lại:
Căn cứ quy định tại điểm 1.1, 1.2 tiểu mục 1, Mục I Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP:
1.1. Đối với đất do người chết để lại (không phân biệt có tài sản hay không có tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất) mà người đó đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003 thì quyền sử dụng đất đó là di sản.
1.2. Đối với trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có một trong các loại giấy quy định tại các Khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003, thì kể từ ngày 01/7/2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản, không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế.
Theo các quy định trên, nếu đất của cụ bà để lại mà có Giấy CNQSDĐ hoặc có các giấy tờ tại các khoản 1, 2, 5 Điều 50 Luật Đất đai 2003 thì quyền sử dụng đất do cụ bà để lại là di sản. Cụ ông và những người đồng thừa kế khác có quyền được hưởng di sản này của cụ bà để lại theo quy định của pháp luật.
Thân mến.
Nội dung bài viết:
Bình luận