Khái niệm, đặc điểm, bản chất của ủy quyền lập pháp 2022

Lập pháp là một trong những chức năng chủ yếu, quan trọng nhất của Quốc hội để thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, thiết lập hành lang pháp lý, chuẩn mực cho tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước, toàn xã hội. Với vai trò đặc biệt quan trọng như vậy, kiểm soát quyền lực trong hoạt động lập pháp là yêu cầu cấp thiết nhằm bảo đảm cho hoạt động này có hiệu lực, hiệu quả, không có “lợi ích nhóm”, tham nhũng, tiêu cực. Bài viết dưới đây của ACC về Khái niệm, đặc điểm, bản chất của ủy quyền lập pháp 2022 hi vọng đem lại nhiều thông tin chi tiết và cụ thể đến Quý bạn đọc.

Quyền lực và chế ước giám sát quyền lực | Tạp chí Tuyên giáo

Khái niệm, đặc điểm, bản chất của ủy quyền lập pháp 2022

I. Khái niệm uỷ quyền lập pháp

Ủy quyền lập pháp (delegation of legislative power) chính là hành vi của cơ quan lập pháp không trực tiếp thực thi quyền lập pháp mà trao/giao lại một phần quyền năng này cho cơ quan khác thực hiện. Như vậy, “ủy quyền lập pháp” (delegation of legislative power) chính là tiền đề để thực hiện hành vi lập pháp theo ủy quyền (ban hành các “văn bản lập pháp theo ủy quyền” - delegated legislation). Ủy quyền lập pháp vì thế luôn đi kèm với hoạt động lập pháp theo ủy quyền (delegated legislation), tức là hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật vốn thuộc thẩm quyền ban hành của Quốc hội nhưng được cơ quan nhận ủy quyền lập pháp ban hành.

II. Đặc điểm của uỷ quyền lập pháp

Ủy quyền lập pháp cũng là một dạng hành vi ủy quyền. Bởi vậy, các đặc điểm mang tính bản chất trong quan hệ ủy quyền đã nói ở phần trước cũng xuất hiện trong ủy quyền lập pháp. Tuy nhiên, do quyền lập pháp là quyền năng riêng có của Quốc hội (cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân cả nước) đặt ra các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung (các quy phạm pháp luật) nên các đặc điểm của ủy quyền lập pháp cũng có những điểm đặc trưng riêng.

Thứ nhất, chủ thể thực hiện việc ủy quyền lập pháp là Quốc hội (cơ quan thực hiện quyền lập pháp) và chủ thể tiếp nhận việc ủy quyền lập pháp đó (chủ thể được ủy quyền lập pháp hoặc chủ thể nhận ủy quyền lập pháp) có thể là bất cứ cơ quan nhà nước có thẩm quyền nào mà Quốc hội thấy có vị thế phù hợp để thực hiện lập pháp theo ủy quyền. Thông thường, ở các nước, các chủ thể này thường là Chính phủ, các Bộ trưởng, một số cơ quan nhà nước mang tính độc lập được thành lập theo các đạo luật của Quốc hội (chẳng hạn như Ủy ban chứng khoán ở Hoa Kỳ, Hội đồng thương mại công bằng ở Nhật Bản) v.v. Ở Việt Nam, các chủ thể nhận ủy quyền lập pháp có thể là Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng kiểm toán nhà nước, Hội đồng nhân dân các cấp, Ủy ban nhân dân các cấp.

Thứ hai, ủy quyền lập pháp là hoạt động mang tính quyền uy của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất (cơ quan thực hiện quyền lập pháp của quốc gia). Đây là hành vi của cơ quan công quyền, mà đặc biệt, đây là hành vi của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân trong bộ máy nhà nước. Bởi vậy, tính quyền uy hay công quyền là một trong những đặc điểm hàng đầu cần phải tính tới khi nghiên cứu về hiện tượng ủy quyền lập pháp. Tính công quyền hoặc quyền uy này đòi hỏi khi thiết kế các quy tắc điều chỉnh hành vi ủy quyền lập pháp cần bảo đảm việc ủy quyền lập pháp được thực hiện thực sự vì lợi ích công (vì lợi ích chung của nhân dân).

Thứ ba, ủy quyền lập pháp thường là hoạt động gây ra những quan ngại về uy tín, vị thế của cơ quan thực hiện quyền lập pháp (Quốc hội). Việc thực hiện quá nhiều ủy quyền lập pháp sẽ tạo ra một ấn tượng rằng Quốc hội chưa thực hiện được đầy đủ quyền năng ban hành pháp luật (quyền lập pháp) cho xã hội. Nói cách khác, Quốc hội chưa thể hiện hết vai và chưa thực hiện đầy đủ chức trách của mình mà người dân kỳ vọng/ủy thác. Trong lịch sử, John Locke, một trong những cha đẻ của lý thuyết về nhà nước pháp quyền đã cho rằng, cơ quan lập pháp không nên và không thể ủy quyền lập pháp của mình cho chủ thể khác. Trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền dân sự” (Second Treatise of Civil Government) (năm 1690), John Locke đã viết rằng “Cơ quan lập pháp không thể chuyển thẩm quyền ban hành luật của mình cho chủ thể khác. Lý do là, quyền lập pháp chính là sự ủy quyền từ chính Nhân dân, chủ thể thực sự của quyền năng này, vì thế chủ thể quyền lập pháp không thể giao quyền này cho người khác… Và khi nhân dân đã nói rằng, nhân dân sẽ tuân thủ các quy tắc và chịu sự điều chỉnh bởi các đạo luật của cơ quan được nhân dân ủy quyền trong những hình thức nhất định, thì không thể có ai nói rằng chủ thể khác cũng có quyền ban hành luật điều chỉnh người dân; hoặc người dân không thể chịu sự ràng buộc của bất cứ văn bản pháp luật nào mà không phải là những đạo luật do những người mà nhân dân đã chọn lựa, đã ủy thác quyền ban hành luật cho mình. Quyền của cơ quan lập pháp có nguồn gốc từ nhân dân bằng một sự ủy quyền tự nguyện và tích cực, vì thế cơ quan lập pháp không thể ủy thác quyền năng này cho chủ thể khác thực hiện”. Xét trong mối quan hệ “phân công, phối hợp, và kiểm soát” giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, thì việc lạm dụng ủy quyền lập pháp có thể đặt thêm gánh nặng cho cơ quan thực hiện quyền hành pháp (Chính phủ) (thậm chí là cơ quan thực hiện quyền tư pháp) phải gánh thay công việc mà đáng lẽ ra công việc ấy thuộc về chức trách của Quốc hội. Điều này làm giảm ý nghĩa về sự rành mạch trong phân công quyền lực.

Thứ tư, ủy quyền lập pháp là hiện tượng phổ biến trong hoạt động xây dựng pháp luật ở các quốc gia trên thế giới. Mặc cho lập luận không phải không có sức nặng của John Locke đã nêu ở trên thì chúng ta vẫn không thể phủ nhận được một thực tế là ủy quyền lập pháp là hiện tượng phổ biến trong hoạt động xây dựng pháp luật ở các quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, khoảng 1 vài thập niên gần đây, chúng ta thường hay nghe ý kiến rằng đang có một điều bất thường khi số lượng Nghị định, thông tư (các hình thức văn bản thể hiện hoạt động lập pháp theo ủy quyền) quá nhiều. Ý kiến như thế rất đáng lưu ý. Tuy nhiên, nếu nghiên cứu chính các quốc gia phát triển, thì hiện tượng ủy quyền lập pháp và lập pháp theo ủy quyền lại là hiện tượng rất phổ biến. Tất nhiên, nói vậy không phải để biện minh cho tình trạng ủy quyền lập pháp tràn lan bởi như kinh nghiệm ở một số quốc gia cho thấy, trên thực tế, các bộ trưởng có thể lợi dụng sự tồn tại của việc lập pháp theo ủy quyền để ban hành các văn bản nhằm tránh sự kiểm soát gắt gao của Quốc hội/Nghị viện nếu như đưa nội dung đó vào đạo luật mẹ.

III. Bản chất của uỷ quyền lập pháp

Về bản chất, ủy quyền lập pháp cũng là một hành vi thực hiện quyền lập pháp. Chính vì thế, việc ủy quyền lập pháp thường được thể hiện trong nội dung các đạo luật của Quốc hội (còn gọi là các đạo luật nguồn, đạo luật “mẹ” - enabling acts) hoặc trong Nghị quyết của Quốc hội. Ủy quyền lập pháp, vì thế, là hành vi lập pháp “gián tiếp”, theo đó, thay vì Quốc hội trực tiếp, tự mình xem xét, quyết định và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật thì Quốc hội đã trao cho chủ thể khác quyền năng ban hành văn bản quy phạm pháp luật và thừa nhận giá trị pháp lý như là luật của loại văn bản quy phạm pháp luật này nếu các văn bản này được ban hành theo đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Tuy nhiên, do ủy quyền lập pháp cũng là hành vi thực hiện quyền lập pháp, do vậy, Quốc hội (chủ thể thực hiện quyền lập pháp), về nguyên tắc vẫn phải chịu toàn bộ trách nhiệm trước nhân dân về chất lượng của các văn bản được ban hành trên cơ sở lập pháp theo ủy quyền.

Trên đây là bài viết mà chúng tôi cung cấp đến Quý bạn đọc về Khái niệm, đặc điểm, bản chất của ủy quyền lập pháp 2022. Trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu, nếu như quý bạn đọc còn thắc mắc hay quan tâm đến Khái niệm, đặc điểm, bản chất của ủy quyền lập pháp 2022, quý bạn đọc vui lòng liên hệ với chúng tôi để được hướng dẫn.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    Họ và tên không được để trống

    Số điện thoại không được để trống

    Số điện thoại không đúng định dạng

    Vấn đề cần tư vấn không được để trống

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo