Trong quá trình chia thừa kế, việc xác định và đánh giá đúng mức độ công sức đóng góp của mỗi người thừa kế là quan trọng. Bài viết này sẽ tập trung khám phá cách tính công sức đóng góp khi chia thừa kế, giúp tối ưu hóa quá trình quản lý tài sản gia đình và tạo sự công bằng khi chia thừa kế.
Tính công sức đóng góp trong các vụ án chia thừa kế như thế nào
Tính công sức đóng góp trong các vụ án chia thừa kế
Ví dụ về một trường hợp tài sản thừa kế liên quan đến Bất động sản được mô tả như sau:
Theo Điều 3 của Luật Đất đai năm 2013, hộ gia đình sử dụng đất được định nghĩa là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, hoặc nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, hoặc nhận chuyển quyền sử dụng đất.
Theo Điều 102 của Bộ Luật Dân sự năm 2015, quy định việc xác định tài sản chung của các thành viên trong hộ gia đình, cũng như quyền và nghĩa vụ đối với tài sản này được thực hiện theo quy định tại Điều 212. Theo đó:
-
Tài sản của các thành viên gia đình cùng sống chung bao gồm tài sản do mỗi thành viên đóng góp và cùng nhau tạo lập nên, cũng như những tài sản khác được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ Luật Dân sự và các luật khác có liên quan.
-
Việc chiếm hữu, sử dụng, và định đoạt tài sản chung của các thành viên gia đình được thực hiện theo phương thức thỏa thuận. Trong trường hợp định đoạt tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký, và tài sản là nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình, phải có sự thỏa thuận của tất cả các thành viên gia đình là người thành niên có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, trừ khi có quy định khác của pháp luật.
Mặc dù tên được ghi trong sổ hộ khẩu, nhưng nếu không có đóng góp công sức nuôi dưỡng, quản lý, hoặc cải tạo đất, người đó sẽ không được hưởng quyền gì đối với tài sản đó.
Việc tính công sức giữ gìn, bảo quản, duy trì, cải tạo… tài sản dựa trên các tiêu chí sau đây
Việc tính công sức giữ gìn, bảo quản, duy trì, cải tạo… tài sản dựa trên các tiêu chí sau đây
Trước hết, cần xem xét về tầm quan trọng của quản lý tài sản và các quan hệ liên quan đến việc quản lý đó. Tầm quan trọng có thể phụ thuộc vào ngữ cảnh, chẳng hạn như nếu người thừa kế đã sống chung với người để lại di sản, hoặc người ở nhờ đang quản lý tài sản, thì tầm quan trọng trong việc quản lý tài sản sẽ khác biệt so với trường hợp người khác đang giúp quản lý tài sản. Cần xem xét nếu không có sự đóng góp của người quản lý, việc bảo quản tài sản có tồn tại không (nếu không có người quản lý, liệu có người khác đảm nhiệm không? Nếu không có người quản lý, liệu tài sản có bị thu hồi không? Có giảm giá trị không?).
Tiếp theo, giá trị của tài sản cũng là một tiêu chí để đánh giá công sức của người quản lý tài sản. Tài sản càng có giá trị cao, trách nhiệm của người quản lý tài sản càng lớn. Công sức quản lý tài sản có giá trị cao nên cao hơn so với công sức quản lý tài sản có giá trị thấp (nếu cả hai đều đòi hỏi chi phí về thời gian, sức lực…).
Cuối cùng, quản lý tài sản đòi hỏi trình độ chuyên môn cao và chi phí thời gian lớn. Cần xem xét liệu công sức đòi hỏi cho việc quản lý tài sản với trình độ chuyên môn và chi phí thời gian cao có lớn hơn so với quản lý tài sản không yêu cầu trình độ chuyên môn hoặc tốn ít thời gian không.
Xác định công sức cho người quản lý di sản thừa kế trong thực tiễn xét xử của Tòa án
Xác định công sức cho người quản lý di sản thừa kế trong thực tiễn xét xử của Tòa án
Đến tháng 9/2021, TAND Tối cao đã công bố tổng cộng 43 án lệ, trong đó có hai án lệ liên quan đến vấn đề di sản thừa kế và một số án khác cũng có liên quan đến thừa kế di sản.
Trước năm 2016, khi chưa có Án lệ 05/2016/AL, trong các vụ tranh chấp về chia di sản thừa kế, người quản lý, có công tôn tạo khối di sản thừa kế không được Tòa án xem xét giải quyết trong vụ án do họ không nộp đơn yêu cầu độc lập và không thông báo việc nộp tạm ứng án phí. Nhiều trường hợp, người quản lý khối di sản đã đầu tư nhiều công sức và chi phí để duy trì khối di sản và gia tăng giá trị của nó cho đến khi xảy ra tranh chấp.
Tuy nhiên, do quy định thủ tục tố tụng theo Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án chưa cung cấp giải thích về quyền lợi của họ trong việc phải đưa ra yêu cầu, và Tòa án không thể phán quyết khi không có yêu cầu từ bên đối tượng. Điều này tạo ra tình trạng khó khăn và dễ dàng trở thành đối tượng của các quan điểm tiêu cực từ phía gia đình và dòng họ.
Để giải quyết những vấn đề thực tế trong quá trình xử lý các vụ tranh chấp về chia thừa kế mà Tòa án không xác định rõ ý kiến của người quản lý di sản, Chánh án TAND Tối cao đã ban hành Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06/4/2016, công bố Án lệ 05/2016/AL (về tranh chấp di sản thừa kế). Nội dung của án lệ này được tóm tắt như sau:
Một vụ án chia thừa kế liên quan đến cụ Nguyễn Văn Hưng và cụ Lê Thị Ngự, có 6 người con chung. Họ đã mua đất từ năm 1953 và xây căn nhà tại 263 Trần Bình Trọng (TP.HCM). Nhà đất không có sổ đỏ, chỉ được kê khai vào năm 1999. Trong quá trình tranh chấp, chị Nguyễn Thị Thuý Phượng, cháu của cụ Hưng và cụ Ngự, là người sống và sửa chữa nhà từ nhỏ đến nay. Khi vụ án chia thừa kế xảy ra vào năm 2008, các người con khác đã yêu cầu phân chia di sản thừa kế, và tòa án quyết định chia làm 6 phần. Chị Phượng kháng cáo, nhưng án lệ vẫn được duy trì.
Sau đó, chị Phượng đề nghị giám đốc thẩm Bản án dân sự phúc thẩm. Tòa án Tối cao đã kháng nghị và hủy toàn bộ bản án dân sự phúc thẩm và sơ thẩm, giao hồ sơ cho TAND TP.HCM xét xử lại theo quy định của pháp luật.
Án lệ 05/2016/AL được công bố để giải quyết các vấn đề như vụ án trên, đặc biệt là để đảm bảo rằng người đóng góp công sức cũng được xem xét theo quy định của án lệ. Nếu không áp dụng án lệ, Tòa án sẽ phải gửi kiến nghị thay thế án lệ đến Tòa án nhân dân tối cao.
Khi người quản lý được cấp “bìa đất”
Trong các vụ tranh chấp thừa kế di sản, không ít vụ án đồng thời đặt ra yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được cấp cho người sử dụng. Các vụ án thường gặp phức tạp khi phải xác định rõ ranh giới giữa "khối di sản" có thời hiệu khởi kiện 30 năm và "tài sản chung" không bị hạn chế thời hiệu khởi kiện. Trong nhiều trường hợp, dù không có bằng chứng văn bản hoặc sự thừa nhận chính thức từ các bên liên quan, vẫn áp dụng quy định có xu hướng hỗ trợ cho quan điểm tài sản là chung để thụ lý vụ án.
Trước đây, do nhiều lý do khác nhau, như tập quán để lại nhà đất cho người con sống chung với ông bà hoặc sự hứa tặng trước đó mà không lập thành văn bản, việc cấp sổ đỏ cho người con thường không được thực hiện khi giá trị của nhà đất chưa tăng cao và số lượng vụ tranh chấp thừa kế còn ít. Do đó, trong thực tế, việc cấp sổ đỏ cho người con sử dụng thường không được UBND thực hiện một cách đầy đủ về việc xác định nguồn gốc, trong khi người con đang sử dụng chỉ cần kê khai và nhận giấy chứng nhận mà không cần yêu cầu giấy tờ thỏa thuận phân chia thừa kế.
Kết quả xử lý của những vụ án này, nhìn chung, có thể thấy hai xu hướng lý luận, dựa trên một số bản án:
Thứ nhất, vẫn công nhận quyền sử dụng đất và không hủy giấy chứng nhận, vì cho rằng quy trình cấp của UBND là đúng theo quy định của pháp luật. Lập luận này thường dựa trên việc đồng thừa kế đã đồng lòng phân chia di sản thừa kế và đã thực hiện trên thực tế, được điều chỉnh trên sổ sách giấy tờ về đất đai theo Án lệ số 24/2018/AL.
Thứ hai, tuyên án hủy giấy chứng nhận, đánh giá rằng việc tự ý kê khai và cấp giấy chứng nhận đất đai mà không có sự đồng thuận của những người thừa kế là không hợp lý.
Cần xác định rõ khối di sản thừa kế
Trong các trường hợp khác, có nhiều lý do khác nhau như sự cách xa về địa lý, yếu tố công việc, hoặc các dịp lễ, mà gia đình không thể tổ chức cuộc họp để thống nhất hoặc không tạo ra văn bản thỏa thuận rõ ràng về những điều kiện trong gia đình, điều này có thể dẫn đến sự hiểu lầm, thậm chí là mất quyền yêu cầu phân chia di sản thừa kế của người được thừa kế, vì nhà đất được cấp sổ đỏ cho người đang sử dụng.
Như đã trình bày trước đó, Án lệ 05/2016/AL chỉ áp dụng trong trường hợp tranh chấp chia thừa kế, và không bao gồm vụ án tranh chấp phân chia tài sản chung của những người thừa kế. Tuy nhiên, trong việc xác định trách nhiệm và quyền lợi để giao cho người quản lý khối tài sản chung, cần phải làm rõ, ít nhất là ghi nhận sự đồng ý tự nguyện của người quản lý trong việc đảm trách các nhiệm vụ chung của gia đình.
Xác định hiện trạng, quá trình sử dụng, quản lý di sản
Để tránh những tranh chấp trong quá trình quản lý và phân chia di sản trong tương lai, người thừa kế cần tổ chức cuộc họp để xác định rõ khối di sản thừa kế và các vấn đề quản lý, cũng như lập thành văn bản để ghi chép mối quan hệ trong gia đình và dòng họ, từ đó tạo ra sự gắn kết và chia sẻ. Điều này đòi hỏi thu thập ý kiến và yêu cầu của người quản lý di sản về việc rút ra công sức mà họ đã đầu tư vào quản lý di sản. Để làm rõ những vấn đề này, quá trình nghiên cứu yêu cầu xem xét các tài liệu có liên quan đến nguồn gốc, giá trị, và tình trạng hiện tại của tài sản tại thời điểm kế thừa và thời điểm yêu cầu chia thừa kế. Các tài liệu này có thể bao gồm văn bản ghi ý kiến, bản tự khai, biên bản lời khai từ các bên liên quan, văn bản xác nhận, chứng cứ cung cấp, biên bản thẩm định tại chỗ, biên bản xác định tình trạng hiện tại của tài sản, đo đạc nhà đất, vị trí, kích thước, người quản lý và sử dụng, biên bản định giá, và thẩm định giá tài sản.
Trong trường hợp các tài sản cần đăng ký quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng, quan trọng là phải xác định tính pháp lý của chúng. Cần xem xét nguồn gốc, quá trình chuyển đổi tài sản qua các giai đoạn, và các biện pháp cải tạo của Nhà nước áp dụng cho loại tài sản này để đề xuất đường hướng giải quyết thích hợp. Đồng thời, nghiên cứu cũng cần làm rõ đóng góp của người quản lý di sản trong việc duy trì và phát triển khối di sản. Cần xem xét công sức của họ trong việc chăm sóc, bảo quản, và đảm bảo trách nhiệm giỗ tết cho người đã qua đời.
Cần chú ý đến trường hợp trong vụ án tranh chấp chia di sản thừa kế, khi có đương sự thuộc diện được hưởng một phần di sản thừa kế và có công sức đóng góp vào việc quản lý, bảo quản di sản nhưng không đồng ý với quá trình chia thừa kế (vì cho rằng đã hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế), và không có yêu cầu cụ thể về việc xem xét công sức đóng góp của họ vào quản lý và bảo quản di sản. Nếu Tòa án quyết định chia thừa kế cho các thừa kế, thì cần xem xét về công sức đóng góp của họ, vì yêu cầu không chia thừa kế đối với di sản thừa kế lớn hơn yêu cầu xem xét về công sức.
Dưới đây là một ví dụ về trường hợp mà Tòa án không xem xét công sức quản lý và bảo quản di sản, dẫn đến cách chia di sản không phù hợp và không bảo đảm quyền lợi và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự:
Cụ Tống Phước T (chết năm 2003) và cụ Phan Thị R (chết năm 1985) không để lại di chúc. Cả hai có 04 người con chung, gồm: Ông Tống Phước L, ông Tống Phước P (hiện đang định cư ở Úc), bà Tống Thị N, bà Tống Mỹ Q.
Năm 1969, cả hai nhận chuyển nhượng phần đất của bà Nguyễn Thị Ng, diện tích đất thực tế sử dụng là 617,4m2, khi mua có nhà, diện tích theo giấy tờ là 470m2, phần đất còn lại là đất thổ công quốc gia. Từ năm 1969 đến nay, nhà đất đã sử dụng ổn định, không có tranh chấp với các hộ liền kề, được xác nhận có đủ điều kiện để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Nguyên đơn là bà Tống Mỹ Q khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ T và cụ R đối với nhà đất do ông Tống Phước L quản lý và sử dụng. Bà đề nghị nhận bằng hiện vật và sẽ thanh toán giá trị tài sản trên phần đất bà được nhận từ ông L. Các thừa kế khác như ông P, bà N đều nhất trí với yêu cầu khởi kiện của bà Q và đề nghị được nhận bằng hiện vật.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 10/205/DSST ngày 08/9/2015, TAND tỉnh Đ đã quyết định chấp nhận đơn khởi kiện của bà Q, chia đều 617,4m2 đất là di sản của cụ R và cụ T cho 04 người con chung. Tòa án buộc gia đình ông L tháo dỡ, di dời toàn bộ nhà xưởng, nhà ở, máy móc, thiết bị để giao đất cho bà Q, bà N và anh H (người được ông P tặng phần thừa kế).
Việc Tòa án cấp sơ thẩm chia đều di sản của cụ T và cụ R cho 04 người con chung mà không xem xét công sức tôn tạo, bảo quản khối di sản của ông L là ảnh hưởng đến quyền lợi của người quản lý di sản. Theo quy định của Điều 640 BLDS năm 2005, người quản lý di sản có quyền hưởng thù lao theo thoả thuận với người thừa kế. Theo Điều 683 BLDS năm 2005, chi phí cho việc bảo quản di sản cũng phải được thanh toán. Ông L đã quản lý, gìn giữ, tôn tạo di sản từ năm 1981 đến nay, mặc dù không có thoả thuận thù lao khi giao di sản, nhưng ông đã thực hiện công việc này trên 30 năm. Do đó, công sức bảo quản di sản thừa kế của ông L cần được xem xét.
Hơn nữa, quyết định của Tòa án buộc gia đình ông L tháo dỡ và di dời toàn bộ nhà xưởng, nhà ở, máy móc, thiết bị để giao đất cho bà Q, bà N và anh H, mặc dù tuân theo quy định về phân chia di sản bằng hiện vật, nhưng lại không phù hợp với quy định của Điều 8 BLDS năm 2005 về việc đảm bảo giữ gìn bản sắc dân tộc, tôn trọng phong tục tập quán, truyền thống và không phù hợp với hoàn cảnh thực tế. Gia đình ông L đã nhiều lần sửa chữa và xây dựng lại nhà, sinh sống ổn định, và nhà máy xay xát lúa là nguồn thu nhập chính của gia đình. Bà Q, bà N đều có nhà ở, ông P định cư ổn định tại Úc và không có nhu cầu sử dụng phần thừa kế của mình (ông tặng cho anh H). Quyết định buộc gia đình ông L tháo dỡ đã ảnh hưởng đến cuộc sống và nguồn thu nhập chính của gia đình ông L.
Những vấn đề này cho thấy rằng quyết định của Tòa án sơ thẩm không xem xét đầy đủ đối với công sức tôn tạo, bảo quản di sản của người quản lý, và cách phân chia di sản không đảm bảo quyền lợi và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan.
Câu hỏi thường gặp
Câu hỏi 1: Diễn giải quy định của Luật Đất đai năm 2013 và Bộ Luật Dân sự năm 2015 về quyền sử dụng đất của hộ gia đình. Làm thế nào quy định về tài sản chung của thành viên trong gia đình theo Bộ Luật Dân sự?
Trả lời 1: Theo quy định của Luật Đất đai năm 2013, hộ gia đình sử dụng đất được định nghĩa là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật, có quyền sử dụng đất chung. Bộ Luật Dân sự năm 2015 quy định rằng tài sản chung của các thành viên gia đình cùng sống bao gồm tài sản do mỗi thành viên đóng góp và cùng nhau tạo lập, cũng như tài sản khác được xác lập quyền sở hữu theo quy định của pháp luật.
Câu hỏi 2: Trong vụ án liên quan đến cụ Nguyễn Văn Hưng và cụ Lê Thị Ngự, vì sao Án lệ 05/2016/AL được công bố? Nội dung chính của án lệ này là gì?
Trả lời 2: Án lệ 05/2016/AL được công bố để giải quyết vấn đề trong vụ án tranh chấp chia thừa kế của cụ Nguyễn Văn Hưng và cụ Lê Thị Ngự. Nội dung chính của án lệ này là đảm bảo rằng người đóng góp công sức cũng được xem xét theo quy định của án lệ. Nếu không áp dụng án lệ, Tòa án sẽ phải gửi kiến nghị thay thế án lệ đến Tòa án nhân dân tối cao.
Câu hỏi 3: Tại sao Tòa án sơ thẩm trong vụ án của cụ Tống Phước T và cụ Phan Thị R đã quyết định chấp nhận đơn khởi kiện của bà Tống Mỹ Q mà không xem xét công sức tôn tạo, bảo quản di sản của ông Tống Phước L?
Trả lời 3: Tòa án sơ thẩm đã quyết định chấp nhận đơn khởi kiện của bà Tống Mỹ Q và chia đều di sản mà không xem xét công sức tôn tạo, bảo quản của ông Tống Phước L, ảnh hưởng đến quyền lợi của ông L. Việc này có thể là do quyết định không đủ xem xét và đánh giá đầy đủ về công sức quản lý và duy trì khối di sản từ phía người quản lý.
Câu hỏi 4: Làm thế nào để tránh những tranh chấp trong quản lý và phân chia di sản trong tương lai, đặc biệt là khi có nhiều người thừa kế?
Trả lời 4: Để tránh tranh chấp, người thừa kế cần tổ chức cuộc họp để xác định rõ khối di sản thừa kế và các vấn đề quản lý. Việc lập văn bản ghi chép mối quan hệ gia đình và dòng họ cũng là quan trọng. Ngoài ra, thu thập ý kiến và yêu cầu của người quản lý về công sức mà họ đã đầu tư là một phần quan trọng để tránh tranh cãi trong tương lai.
Nội dung bài viết:
Bình luận