Pháp luật nước ta quy định rất chi tiết về cơ chế bồi thường thiệt hại về tài sản khi xâm hại . Vậy câu hỏi đặt ra ở đây, thiệt hại về tài sản là gì? Bao gồm những gì? Để tìm câu trả lời cho các câu hỏi này, mời bạn đọc bài viết sau đây của chúng tôi để biết thêm thông tin nhé.
1.Quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại về tài sản
Bồi thường thiệt hại về tài sản là một trách nhiệm dân sự phát sinh khi có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại đến tài sản của người khác. Một người chỉ phải chịu trách nhiệm dân sự là bồi thường về tài sản cho người khác khi người đó có lỗi và việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tài sản được quy đinh tại Bộ Luật Dân sự năm 2015. Căn cứ theo quy định tại Điều 589 Bộ Luật Dân sự năm 2015, vấn để bồi thường thiệt hại về tài sản được quy định bao gồm :
- Tài sản bị mất, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng.
- Lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản bị mất, bị giảm sút.
- Chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại.
- Thiệt hại khác do luật quy định."
2. Trường hợp gây thiệt hại không phải bồi thường
2.1. Phòng vệ chính đáng:
Về mặt lý luận cũng như thực tiễn, chế định phòng vệ chính đáng được đề cập chủ yếu trong pháp luật hình sự. Phòng vệ chính đáng trong pháp luật dân sự được tiếp thu trên cơ sở lý luận và thực tiễn trong pháp luạt hình sự:
Theo Điều 22 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017: “Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.
Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm”
Tiếp thu điều đó, Điều 594 Bộ luật dân sự năm 2015 cũng quy định: “Người gây thiệt hại trong trường hợp phòng vệ chính đáng không phải bồi thường cho người bị thiệt hại”
2.2. Tình thế cấp thiết
Bộ luật dân sự không đưa ra khái niệm tình thế cấp thiết. Tuy nhiên, điều 23 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 quy định: Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà không còn cách nào khác là phải gây ra một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.
2.3. Sự kiện bất khả kháng
Theo Khoản 1 Điều 156 Bộ luật dân sự 2015: “Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.”
Bộ luật dân sự cũng đã quy định sự kiện bất khả kháng loại trừ trách nhiệm bồi thường trong các trường hợp cụ thể như:
- Khoản 3 Điều 541: Trường hợp bất khả kháng dẫn đến tài sản vận chuyển bị mất, hư hỏng hoặc bị hủy hoại trong quá trình vận chuyển thì bên vận chuyển không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.”
- Khoản 2 Điều 556 quy định Quyền của bên gửi tài sản: “Yêu cầu bồi thường thiệt hại, nếu bên giữ làm mất, hư hỏng tài sản gửi giữ, trừ trường hợp bất khả kháng.
- Khoản 4 Điều 557 quy định Nghĩa vụ của bên giữ tài sản: “ Phải bồi thường thiệt hại, nếu làm mất, hư hỏng tài sản gửi giữ, trừ trường hợp bất khả kháng.”
3.Các loại thiệt hại tài sản
Thiệt hại về tài sản khi bị xâm phạm bởi hành vi trái pháp luật của chủ thể, bao gồm thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp. Căn cứ vào đó, có thể xác định các thiệt hại về tài sản làm phát sinh trách nhiệm bồi thường như sau:
3.1.Thiệt hại trực tiếp
Thiệt hại trực tiếp là thiệt hại có thể xác định cụ thể khi tài sản bị xâm phạm, nhằm phục hồi tình trạng tài sản ban đầu của người bị thiệt hại. Đây là những thiệt hại xảy ra với tài sản có thể tính toán, đo lường ngay tại thời điểm xảy ra thiệt hại. Bằng cách xác định giá trị còn lại của tài sản tại thời điểm gây thiệt hại khi tài sản bị mất, hư hỏng không thể sửa chữa,…hoặc chi phí để sửa chữa, phục hồi tài sản khi tài sản bị hư hỏng, hủy hoại nhưng có thể sửa chữa được. Theo quy định trên thì thiệt hại trực tiếp đối với tài sản bao gồm:
-Một là, tài sản bị mất, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng. Chủ thể có hành vi trái pháp luật làm mất, hư hỏng, hủy hoại tài sản của chủ thể khác thì phải chịu trách nhiệm bồi thường. Theo đó, thiệt hại đối với tài sản bị mất là tình trạng tài sản, giá thị trường của tài sản đó tại thời điểm xảy ra thiệt hại.
-Hai là, những chi phí phải bỏ ra để ngăn chặn, khắc phục, hạn chế thiệt hại. Pháp luật quy định, khi một bên có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho bên kia, thì với tư cách là người có quyền và lợi ích bị xâm phạm họ có nghĩa vụ phải áp dụng các biện pháp cần thiết để hạn chế, ngăn chặn thiệt hại xảy ra. Khoản 5 Điều 585 BLDS năm 2015 quy định: “Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình”. Tuy nhiên, nghĩa vụ này chỉ đặt ra khi bên bị thiệt hại có đủ điều kiện để áp dụng biện pháp cần thiết để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại. Nếu họ có đủ kiện áp dụng các biện pháp đó có thể sẽ làm phát sinh các khoản chi phí cần thiết. Những khoản chi phí này là căn cứ để xác định thiệt hại về tài sản, bởi nếu không có hành vi trái pháp luật của chủ thể thì người bị thiệt hại cũng không cần bỏ chi phí để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại. Nói cách khác, hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho người khác chính là nguyên nhân làm phát sinh chi phí ngăn chặn, hạn chế thiệt hại. Các khoản chi phí này được xác định cụ thể ngay tại thời điểm có hành vi tác động của chủ thể khác.
-Một là, tài sản bị mất, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng. Chủ thể có hành vi trái pháp luật làm mất, hư hỏng, hủy hoại tài sản của chủ thể khác thì phải chịu trách nhiệm bồi thường. Theo đó, thiệt hại đối với tài sản bị mất là tình trạng tài sản, giá thị trường của tài sản đó tại thời điểm xảy ra thiệt hại.
-Hai là, những chi phí phải bỏ ra để ngăn chặn, khắc phục, hạn chế thiệt hại. Pháp luật quy định, khi một bên có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho bên kia, thì với tư cách là người có quyền và lợi ích bị xâm phạm họ có nghĩa vụ phải áp dụng các biện pháp cần thiết để hạn chế, ngăn chặn thiệt hại xảy ra. Khoản 5 Điều 585 BLDS năm 2015 quy định: “Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình”. Tuy nhiên, nghĩa vụ này chỉ đặt ra khi bên bị thiệt hại có đủ điều kiện để áp dụng biện pháp cần thiết để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại. Nếu họ có đủ kiện áp dụng các biện pháp đó có thể sẽ làm phát sinh các khoản chi phí cần thiết. Những khoản chi phí này là căn cứ để xác định thiệt hại về tài sản, bởi nếu không có hành vi trái pháp luật của chủ thể thì người bị thiệt hại cũng không cần bỏ chi phí để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại. Nói cách khác, hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho người khác chính là nguyên nhân làm phát sinh chi phí ngăn chặn, hạn chế thiệt hại. Các khoản chi phí này được xác định cụ thể ngay tại thời điểm có hành vi tác động của chủ thể khác.
3.2.Thiệt hại gián tiếp
Thiệt hại gián tiếp là những thiệt hại gắn liền với việc khai thác, sử dụng tài sản trong thời gian từ khi xảy ra thiệt hại đến khi bồi thường. Đối chiếu với Điều luật trên, có thể xác định được thiệt hại gián tiếp chính là lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản bị mất, bị giảm sút. Nếu tài sản không bị mất, hư hỏng, hoặc giảm sút giá trị thì chủ thể hoàn toàn có thể khai thác, sử dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Trong quãng thời gian tài sản bị đem đi sửa chữa, khắc phục lỗi làm chủ thể không thể hưởng hoa lợi, lợi tức tài sản đem lại.
Bên cạnh đó pháp luật còn quy định thêm những thiệt hại khác là căn cứ để mở rộng vấn đề. Trên thực tế, hoạt động của cong người rất đa dạng, phong phú mà tại thời điểm hiện tại các nhà làm luật không thể lường trước được, quy định này nhằm tạo ra sự linh hoạt trong việc áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Việc bồi thường thiệt hại về tài sản có thể được thực hiện bằng hình thức thanh toán tiền mặt, hiện vật hoặc thực hiện một công việc. Trên thực tế bên gây thiệt hại có thể thực hiện bồi thường bằng cách trực tiếp sửa chữa tài sản, hoặc thay thế một tài sản khác có giá trị tương đương. Phương thức bồi thường cũng do các bên thỏa thuận lựa chọn, có thể là bồi thường toàn bộ trong một lần hoặc nhiều lần.
Bên cạnh đó pháp luật còn quy định thêm những thiệt hại khác là căn cứ để mở rộng vấn đề. Trên thực tế, hoạt động của cong người rất đa dạng, phong phú mà tại thời điểm hiện tại các nhà làm luật không thể lường trước được, quy định này nhằm tạo ra sự linh hoạt trong việc áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Việc bồi thường thiệt hại về tài sản có thể được thực hiện bằng hình thức thanh toán tiền mặt, hiện vật hoặc thực hiện một công việc. Trên thực tế bên gây thiệt hại có thể thực hiện bồi thường bằng cách trực tiếp sửa chữa tài sản, hoặc thay thế một tài sản khác có giá trị tương đương. Phương thức bồi thường cũng do các bên thỏa thuận lựa chọn, có thể là bồi thường toàn bộ trong một lần hoặc nhiều lần.
Nội dung bài viết:
Bình luận