Quyền định đoạt đối với tài sản thừa kế được quy định như thế nào?

Quyền định đoạt tài sản thừa kế là một quyền của chủ sở hữu tài sản để chuyển giao quyền sở hữu, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng hoặc tiêu hủy tài sản. Đây là một quyền vô cùng quan trọng không chỉ đối với người để lại di sản mà còn cả người nhận thừa kế. Bài viết này sẽ giới thiệu cho bạn quyền định đoạt tài sản thừa kế, các quy định của pháp luật về quyền này và cách thực hiện quyền định đoạt tài sản thừa kế.

Quyền định đoạt đối với tài sản thừa kế được quy định như thế nào

Quyền định đoạt đối với tài sản thừa kế được quy định như thế nào

1. Thế nào là quyền định đoạt tài sản?

1.1. Quyền định đoạt tài sản là gì?

Tại điều 192, Bộ luật Dân sự năm 2015:

"Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng hoặc tiêu hủy tài sản."

Pháp lý coi quyền định đoạt là quyền quan trọng nhất của chủ sở hữu đối với tài sản và định nghĩa nó dưới hai khía cạnh:

  1. Định đoạt số phận thực tế của tài sản:

    • Chủ sở hữu có thể thực hiện các hành động ảnh hưởng đến tài sản, khiến chúng mất đi thực tế. Ví dụ, việc sử dụng hết các tài sản tiêu hao như lương thực, thực phẩm, mỹ phẩm, dược phẩm; hoặc hủy hoại tài sản, như đốt cháy, phá hủy, làm mất tính năng và công dụng của chúng.
  2. Định đoạt số phận pháp lý của tài sản qua hai hình thức:

    • Chủ sở hữu có thể chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho người khác thông qua việc thiết lập các hợp đồng như bán, tặng, hoặc trao đổi tài sản. Những hợp đồng này bao gồm việc chuyển giao cả ba quyền: chiếm hữu, sử dụng và định đoạt, vĩnh viễn cho người nhận. Quy định tại Điều 238 Bộ luật dân sự năm 2015 giải thích chi tiết về quá trình này:"Khi chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu của mình cho người khác thông qua hợp đồng mua bán, trao đổi, tặng cho, cho vay hợp đồng chuyển quyền sở hữu khác theo quy định của pháp luật hoặc thông qua việc để thừa kế quyền sở hữu đối với tài sản của người đó chấm dứt kể từ thời điểm phát sinh quyền sở hữu của người được chuyển giao."

Việc từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản đồng thời là một biểu hiện của việc định đoạt số phận pháp lý của tài sản. Điều 239 của Bộ luật dân sự năm 2015 rõ ràng quy định về vấn đề này:

"Chủ sở hữu có thể chấm dứt quyền sở hữu đối với tài sản của mình thông qua việc công bố tuyên bố hoặc thực hiện các hành động chứng minh ý chí từ bỏ quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản đó.

Trong trường hợp tài sản từ bỏ có thể gây hại đến trật tự, an toàn xã hội hoặc gây ô nhiễm môi trường, việc từ bỏ quyền sở hữu phải tuân theo quy định của pháp luật.

Tuy việc từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản là một hình thức giao dịch dân sự, một hành vi pháp lý đơn phương, nhưng hiệu lực của nó phụ thuộc vào việc đáp ứng các điều kiện quy định tại Điều 117 của Bộ luật dân sự năm 2015, bao gồm chủ thể, mục đích, nội dung, ý chí và hình thức. Chẳng hạn, nếu một người tuyên bố từ bỏ quyền sở hữu về một chiếc xe máy trong trạng thái tâm thần không ổn định, hành động này sẽ không có giá trị pháp lý. Tương tự, việc từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản có thể bị từ chối nếu tài sản đó có khả năng gây ô nhiễm hoặc có ảnh hưởng độc hại đối với môi trường và xã hội.

1.2. Điều kiện định đoạt theo quy định

Hệ thống pháp luật quy định rằng, đối với cá nhân, cho dù họ là chủ sở hữu hay không, đều có quyền định đoạt tài sản, tuy nhiên, điều này phải tuân thủ các điều kiện cụ thể về năng lực hành vi và các quy trình, thủ tục được định rõ bởi pháp luật:

  • Về năng lực hành vi: Quyền định đoạt tài sản chỉ có thể được thực hiện bởi những người có năng lực hành vi dân sự theo những quy định cụ thể của pháp luật.

  • Trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật về định đoạt: Nếu pháp luật quy định các quy trình và thủ tục cụ thể liên quan đến việc định đoạt tài sản, thì việc này phải được thực hiện theo đúng các trình tự, thủ tục đó.

Do đó, những chủ thể có quyền định đoạt có thể tự do thực hiện hành vi chuyển giao quyền sở hữu, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng hoặc tiêu hủy tài sản theo ý chí và nhu cầu cá nhân của họ. Sự thực hiện của quyền định đoạt có thể được quan sát ở hai góc độ khác nhau, tùy thuộc vào quan điểm và mong muốn của chủ thể:

  • Đầu tiên, khi xem xét về định đoạt tài sản dưới góc độ thực tế, các chủ thể có khả năng áp dụng nhiều phương tiện như tác động trực tiếp lên tài sản thông qua việc tiêu dùng hoặc tiêu hủy tài sản theo quy định. Hành vi tiêu dùng liên quan đến việc chủ thể đưa tài sản vào sử dụng để đáp ứng nhu cầu cuộc sống của mình. Ngược lại, hành động tiêu hủy tài sản liên quan đến việc chủ thể thực hiện một loạt các hành vi cụ thể để làm cho tài sản không còn tồn tại theo cách vĩnh viễn.
  • Thứ hai, khi xét đến định đoạt tài sản từ góc độ pháp lý, điều này hiểu là chủ thể chuyển giao quyền sở hữu tài sản từ một chủ thể này sang một chủ thể khác theo các quy định hoặc từ bỏ tài sản, tạo ra phát sinh quyền mới đối với tài sản. Trong ngữ cảnh pháp lý, định đoạt tài sản là quá trình chấm dứt quyền sở hữu của một chủ thể đối với tài sản. Chủ thể thực hiện quyền này thông qua các giao dịch dân sự cụ thể như thừa kế, việc tặng, hay bán tài sản, tuân theo quy định của pháp luật.

1.3. Có phải chủ sở hữu có quyền định đoạt tài sản của mình trong mọi trường hợp không?

Không phải trong mọi trường hợp chủ sở hữu đều có quyền định đoạt tài sản của mình. Để thực hiện quyền định đoạt đối với tài sản, cần tuân thủ một số điều kiện được quy định tại Điều 193 của Bộ luật dân sự năm 2015:

Điều 193. Điều kiện thực hiện quyền định đoạt

Việc định đoạt tài sản phải do người có năng lực hành vi dân sự thực hiện không vi phạm quy định của pháp luật. Trong trường hợp pháp luật quy định trình tự và thủ tục định đoạt tài sản, việc thực hiện phải tuân theo trình tự và thủ tục đó.

Điều này đặt ra các điều kiện quan trọng liên quan đến chủ thể, nội dung định đoạt, và quy trình thực hiện:

  • Về chủ thể: Việc định đoạt tài sản phải do người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự để thực hiện.

    • Trong trường hợp cần sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi khi thực hiện giao dịch dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ các giao dịch phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày phù hợp với lứa tuổi.
    • Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có thể tự xác lập và thực hiện giao dịch dân sự, trừ các giao dịch liên quan đến bất động sản và động sản, phải đăng ký và thực hiện theo sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật.
    • Trong trường hợp người dưới 6 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, các giao dịch phải do người đại diện hoặc người giám hộ xác lập và thực hiện.
  • Về nội dung định đoạt: "Không trái quy định của pháp luật", như quy định tại điểm c của khoản 1 Điều 117 của Bộ luật dân sự: "Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội".

Các hành vi định đoạt tài sản của chủ sở hữu cũng phải tuân thủ các điều kiện chung của giao dịch, điều này đồng nghĩa với việc phải tuân theo quy định của Điều 117 trong Bộ luật dân sự.

Về trình tự, thủ tục định đoạt: Các hành động định đoạt tài sản phải tuân theo quy định của pháp luật. Theo khoản 2 của Điều 117 trong Bộ luật dân sự, đặt ra các yêu cầu về hình thức của giao dịch dân sự. Trong trường hợp định đoạt tài sản, các trình tự và thủ tục cụ thể mà pháp luật quy định, ví dụ như việc ký hợp đồng trước công chứng viên, có dấu của công chứng, đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, và tiến hành các thủ tục chuyển nhượng tên sổ đỏ... Nếu chủ sở hữu định đoạt đối với tài sản như quyền sử dụng đất, nhà ở mà không tuân thủ những trình tự và thủ tục pháp luật, thì hành động định đoạt đó sẽ không có giá trị.

Ví dụ: Một ví dụ cụ thể có thể được tìm thấy trong khoản 3 của Điều 167 trong Luật Đất đai năm 2013, quy định về quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất. Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo luật định cần phải tuân theo các quy định cụ thể, nhưng nếu không thực hiện đúng các quy định này, hành động chuyển nhượng đó sẽ không có hiệu lực:

"3. Việc công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện các quyền của người sử dụng đất được thực hiện như sau:

a) Hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực, trừ trường hợp kinh doanh bất động sản quy định tại điểm b khoản này;

b) Hợp đồng cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp; hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, tài sản gắn liền với đất mà một bên hoặc các bên tham gia giao dịch là tổ chức hoạt động kinh doanh bất động sản được công chứng hoặc chứng thực theo yêu cầu của các bên;

c) Văn bản về thừa kế quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật về dân sự;

d) Việc công chứng thực hiện tại các tổ chức hành nghề công chứng, việc chứng thực thực hiện tại Ủy ban nhân dân cấp xã."

1.4. Chủ thể có quyền định đoạt tài sản

Hiện hành, đặc biệt là trong Bộ luật dân sự năm 2015, có quy định về quyền định đoạt tài sản cho cả chủ thể sở hữu và những người không phải là chủ sở hữu.

Thứ nhất: Quyền định đoạt của chủ sở hữu

Bộ luật dân sự năm 2015 cấp quyền cho chủ sở hữu thực hiện các hành vi như bán, trao đổi, tặng, cho vay, để thừa kế, từ bỏ hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác phù hợp với quy định của pháp luật. Điều này đồng nghĩa với việc pháp luật trao cho chủ sở hữu một quyền lực lớn khi thực hiện quyền định đoạt tài sản.

Thứ hai: Quyền định đoạt của người không phải là chủ sở hữu

Người không phải là chủ sở hữu cũng có quyền định đoạt tài sản, nhưng quyền này được hạn chế trong những trường hợp nhất định. Người này chỉ có quyền định đoạt tài sản dưới sự ủy quyền của chủ sở hữu hoặc theo quy định của pháp luật.

Theo Điều 198 của Bộ luật dân sự năm 2015, người được chủ sở hữu ủy quyền định đoạt tài sản phải thực hiện hành động này phù hợp với ý chí và lợi ích của chủ sở hữu.

Hạn chế của quyền định đoạt tài sản (Điều 196 Bộ luật dân sự năm 2015)

Quyền định đoạt tài sản chỉ bị hạn chế trong các trường hợp do pháp luật quy định. Khi tài sản đem bán là di tích lịch sử, văn hóa, nhà nước có quyền ưu tiên mua. Đối với tài sản khác, các quyền ưu tiên mua có thể thuộc về các quan hệ như pháp nhân, cá nhân, hoặc chủ thể khác theo quy định của pháp luật.

Ví dụ, trong Luật Doanh nghiệp 2020, Điều 44 quy định về chuyển nhượng phần vốn góp của thành viên công ty TNHH hai thành viên có những hạn chế cụ thể, bao gồm quyền ưu tiên mua của các thành viên còn lại.

Dựa trên quy định về ủy quyền định đoạt tài sản, Bộ luật dân sự năm 2015 đã thiết lập điều kiện thuận lợi cho chủ sở hữu khi định đoạt tài sản và quy định cụ thể về việc ủy quyền định đoạt tài sản. Người được ủy quyền và người ủy quyền đều phải tuân theo ý chí và lợi ích của chủ sở hữu, đồng thời, Bộ luật dân sự năm 2015 cũng hạn chế quyền định đoạt tài sản trong những trường hợp nhất định, như khi tài sản đã được kê biên, làm vật bảo đảm, hoặc theo các quy định về cọc, thế chấp

2. Quyền định đoạt tài sản thừa kế

Quyền định đoạt tài sản thừa kế

Quyền định đoạt tài sản thừa kế

2.1. Quyền định đoạt tài sản thừa kế của người để lại di sản

Cá nhân người để lại tài sản, với tư cách là chủ sở hữu hợp pháp của các tài sản cá nhân, đều được ủy quyền quyền lập di chúc nhằm thực hiện quyền định đoạt tài sản của mình trước khi qua đời. Di chúc là biểu hiện rõ ràng về ý chí cá nhân trong việc xác định phân chia và quyết định về tài sản mà họ sở hữu.

Theo quy định tại Điều 648 của Bộ luật dân sự, người lập di chúc có các quyền sau đây:

  1. Chỉ định người thừa kế và Truất quyền hưởng di sản: Người lập di chúc có quyền xác định ai sẽ là người thừa kế và có thể truất quyền hưởng di sản của những người thừa kế theo quy định pháp luật, mà không cần phải nêu rõ lý do.

  2. Phân định phần di sản cho từng người thừa kế: Người lập di chúc có thẩm quyền phân chia di sản của mình cho từng người thừa kế một cách cụ thể, không nhất thiết phải ngang nhau, mà không cần phải giải thích lý do.

  3. Dành một phần tài sản để di tặng, thờ cúng: Người lập di chúc có quyền quyết định dành một phần của tài sản để di tặng hoặc thờ cúng, và phần này không bị chia vào phần di sản của người thừa kế. Hiệu lực của việc di tặng được xác định theo thời điểm người lập di chúc qua đời.

  4. Giao nghĩa vụ cho người thừa kế: Người lập di chúc có quyền giao nghĩa vụ cụ thể cho người thừa kế, như trả nợ hoặc bồi thường thiệt hại, nhằm bảo đảm lợi ích vật chất của những người khác mà họ quan tâm.

  5. Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản: Người lập di chúc có thể xác định người giữ di chúc để đảm bảo an toàn và xác thực của di chúc, người quản lý di sản để giữ gìn và quản lý tài sản cho đến khi được phân chia, cũng như người phân chia di sản để thực hiện công tác phân chia theo ý chí của người lập di chúc.

Qua đó, di chúc không chỉ là văn bản pháp lý mà còn là biểu hiện của quyền tự do ý chí của cá nhân trong việc quyết định về tài sản mà họ để lại.

Ngoài ra, theo Điều 662 của Bộ Luật Dân sự (BLDS), người lập di chúc được quyền thực hiện sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc hủy bỏ di chúc một cách tự nguyện. Cụ thể:

  1. Chỉ định người thừa kế: Người lập di chúc có quyền quyết định người nhận thừa kế và có thể ấn định bất kỳ cá nhân hoặc tổ chức nào. Quyết định này có thể dựa trên mối quan hệ hôn nhân, quan hệ nuôi dưỡng, hoặc quan hệ huyết thống. Người lập di chúc cũng có thể chỉ định Nhà nước, tổ chức kinh tế, xã hội, và các bên thứ ba khác.

  2. Truất quyền hưởng di sản: Người lập di chúc có quyền quyết định truất quyền hưởng di sản của người thừa kế theo quy định pháp luật mà không cần nêu rõ lý do. Cách hiểu về "truất" có thể khác nhau và không được pháp luật quy định cụ thể. Một số quan điểm cho rằng, người bị truất quyền hưởng di sản được xác định rõ trong di chúc, trong khi quan điểm khác cho rằng chỉ cần người lập di chúc không chỉ định người thừa kế là đủ.

  3. Quyền phân định di sản cho từng người thừa kế: Người lập di chúc có quyền phân chia di sản của mình một cách cụ thể cho từng người thừa kế. Quyết định này có thể không cần phải giữ ngang nhau và không cần nêu rõ lý do. Nếu có sự thỏa thuận giữa các người thừa kế, việc phân chia di sản có thể tuân theo sự thỏa thuận đó.

  4. Quyền giao nghĩa vụ cho người thừa kế: Người lập di chúc có thể chỉ định nhiệm vụ cụ thể mà người thừa kế phải thực hiện, như trả nợ hoặc bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, nghĩa vụ này chỉ liên quan đến tài sản trong di sản thừa kế và không gắn liền với nhân thân của người thừa kế.

  5. Dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng và để di tặng: Người lập di chúc có quyền để lại một phần di sản để thực hiện các nghĩa vụ thờ cúng hoặc để di tặng cho người khác. Phần này không tham gia vào quá trình phân chia di sản theo quy định pháp luật.

  6. Quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc: Người lập di chúc có quyền thực hiện các biện pháp này một cách tự nguyện. Sửa đổi và bổ sung là việc làm thay đổi một phần hoặc thêm vào di chúc. Thay thế di chúc là lập một di chúc mới để thay thế di chúc cũ. Hủy bỏ di chúc là việc truất bãi di chúc đã lập.

  7. Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản: Người lập di chúc có quyền chỉ định người giữ di chúc để đảm bảo di chúc không bị thất lạc hoặc hỏng hóc. Người quản lý di sản có thể được xác định trong di chúc hoặc theo sự thỏa thuận của những người thừa kế. Người phân chia di sản có thể được chỉ định để thực hiện công việc phân chia di sản theo di chúc.

Tóm lại, quyền định đoạt của người lập di chúc được bảo vệ và thực hiện theo quy định của BLDS, đồng thời, sự tôn trọng và thực hiện đúng ý chí của người lập di chúc là nguyên tắc cơ bản trong hệ thống pháp luật dân sự.

2.2. Quyền định đoạt tài sản thừa kế là tài sản chung

Dựa trên Điều 218 của Bộ Luật Dân sự 2015, quy định về định đoạt tài sản chung như sau:

  1. Mỗi chủ sở hữu chung theo phần đều có quyền tự do định đoạt phần quyền sở hữu của mình.

  2. Quá trình định đoạt tài sản chung thường được thực hiện thông qua thỏa thuận của các chủ sở hữu chung hoặc tuân theo quy định của pháp luật.

  3. Nếu một chủ sở hữu chung theo phần quyết định bán phần quyền sở hữu của mình, chủ sở hữu chung khác có quyền ưu tiên mua. Thời hạn ưu tiên mua là 03 tháng đối với bất động sản và 01 tháng đối với động sản, tính từ ngày nhận được thông báo về việc bán và điều kiện bán.

  4. Trong trường hợp không có chủ sở hữu chung nào mua trong thời hạn ưu tiên, chủ sở hữu có thể tự do bán cho bất kỳ người nào khác. Thông báo việc bán phải là văn bản và các điều kiện bán cho chủ sở hữu chung phải tương tự như đối với người không phải là chủ sở hữu chung.

  5. Nếu vi phạm quyền ưu tiên mua khi bán phần quyền sở hữu, trong vòng 03 tháng kể từ ngày phát hiện, các chủ sở hữu chung có quyền yêu cầu Tòa án chuyển quyền và nghĩa vụ của người mua. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại.

  6. Trường hợp một chủ sở hữu chung từ bỏ phần quyền sở hữu hoặc khi chủ sở hữu chung này mất mà không có người thừa kế, phần quyền sở hữu đó thuộc về Nhà nước. Tuy nhiên, đối với sở hữu chung của cộng đồng, phần quyền sở hữu đó thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu còn lại.

  7. Trong trường hợp tất cả các chủ sở hữu chung đều từ bỏ quyền sở hữu của mình đối với tài sản chung, việc xác lập quyền sở hữu được áp dụng theo quy định tại Điều 228 của Bộ Luật Dân sự 2015.

3. Quyền định đoạt tài sản có bị hạn chế không?

Quyền định đoạt tài sản có bị hạn chế không

Quyền định đoạt tài sản có bị hạn chế không

Điều 196 của Bộ luật dân sự năm 2015 chi tiết quy định về hạn chế quyền định đoạt tài sản:

1. Hạn chế theo quy định của luật: Quyền định đoạt tài sản chỉ bị hạn chế trong các trường hợp do luật quy định. Điều này đặt ra nguyên tắc cơ bản rằng chủ thể có toàn quyền định đoạt tài sản theo ý mình, chẳng hạn như việc lựa chọn người nhận chuyển quyền sở hữu hoặc cách thức định đoạt, và quyền này chỉ bị hạn chế theo quy định của luật.

2. Ưu tiên mua của những chủ thể khác: Khi tài sản được định đoạt là tài sản thuộc di tích lịch sử - văn hóa theo quy định của Luật di sản văn hóa, nhà nước được quyền ưu tiên mua. Các chủ thể cá nhân hoặc pháp nhân cũng có quyền ưu tiên mua đối với tài sản nhất định theo quy định của pháp luật. Ví dụ, Điều 218, khoản 3 của Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về quyền ưu tiên mua của chủ sở hữu chung khi bán quyền sở hữu của mình.

3. Thực hiện quyền ưu tiên mua: Chủ sở hữu phải dành quyền ưu tiên mua cho các chủ thể được ưu tiên theo quy định của pháp luật khi bán tài sản. Nếu trong thời hạn quy định không có chủ thể nào thực hiện quyền ưu tiên mua, chủ sở hữu có quyền bán cho người khác.

4. Ví dụ về quyền ưu tiên mua trong thực tế: Cụ thể, Điều 126 của Luật nhà ở năm 2014 và Điều 127 quy định về quyền ưu tiên mua của các đồng sở hữu chung khi bán thuộc sở hữu chung. Điều này đặt ra quy định rõ ràng về thời hạn và các điều kiện khi có quyền ưu tiên mua.

5. Hạn chế theo pháp luật và di chúc: Ngoài ra, quyền định đoạt tài sản của người thừa kế cũng bị hạn chế theo quy định của luật và theo nội dung của di chúc. Nếu di sản thừa kế đã được xác định, người thừa kế vẫn phải thực hiện nghĩa vụ tài sản theo quy định tại Điều 615 Bộ luật dân sự năm 2015. Hạn chế này bao gồm cả trường hợp thừa kế theo di chúc, khi người thừa kế phải tuân theo ý chí và nghĩa vụ tài sản theo quy định tại Điều 626 Bộ luật dân sự năm 2015.

Tổng cộng, Điều 196 của Bộ luật dân sự năm 2015 cung cấp các quy định chi tiết về hạn chế quyền định đoạt tài sản, tạo ra một cơ sở pháp lý rõ ràng để đảm bảo sự công bằng và tuân thủ quy định pháp luật trong quá trình định đoạt tài sản.

4. Câu hỏi thường gặp

Câu hỏi 1: Điều 196 của Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về hạn chế quyền định đoạt tài sản. Quyền này có bị hạn chế trong những trường hợp nào?

Câu trả lời: Quyền định đoạt tài sản chỉ bị hạn chế trong các trường hợp do luật quy định. Điều này bao gồm hạn chế theo quy định của luật và ưu tiên mua của các chủ thể khác, như Nhà nước hay các đồng sở hữu chung.

Câu hỏi 2: Cá nhân để lại tài sản có quyền lập di chúc để thực hiện quyền định đoạt tài sản. Quyền lập di chúc này có những quyền và trách nhiệm gì?

Câu trả lời: Người lập di chúc có quyền chỉ định người thừa kế, truất quyền hưởng di sản, phân định phần di sản, dành phần tài sản cho việc di tặng hoặc thờ cúng, và giao nghĩa vụ cho người thừa kế. Đồng thời, người lập di chúc có quyền chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, và người phân chia di sản.

Câu hỏi 3: Điều 218 của Bộ Luật Dân sự 2015 quy định về định đoạt tài sản chung. Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền gì khi định đoạt tài sản chung?

Câu trả lời: Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền tự do định đoạt phần quyền sở hữu của mình. Quy trình này thường dựa trên thỏa thuận giữa các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của pháp luật. Nếu một chủ sở hữu chung bán phần quyền sở hữu của mình, chủ sở hữu chung khác có quyền ưu tiên mua, và nếu không, có thể bán cho người khác sau một thời hạn ưu tiên. Việc này đảm bảo quyền lợi của các chủ sở hữu chung và ngăn chặn việc vi phạm quyền ưu tiên mua.

Câu hỏi 4: Cha mẹ tôi có tạo dựng được 1 căn nhà. Bây giờ mẹ tôi đã mất. Cha tôi có vợ mới nên có ý định bán căn nhà để về ở với vợ mới. Anh em chúng tôi không đồng ý, muốn giữ lại căn nhà để ở và thờ cúng mẹ. Tôi xin hỏi khi mẹ qua đời, cha tôi có quyền định đoạt tài sản hay không?

Câu trả lời: 

Căn nhà mà cha và mẹ bạn tạo lập được coi là tài sản chung của cả hai người. Khi mẹ của bạn qua đời, đồng thời mở thừa kế đối với phần tài sản riêng của mẹ trong khối tài sản chung.

Do thông tin về việc mẹ bạn có để lại di chúc hay không không được cung cấp, chúng tôi tạm chia thành hai trường hợp như sau:

  1. Trong trường hợp mẹ bạn để lại di chúc hợp lệ, thì nội dung di chúc sẽ quyết định người được hưởng di sản thừa kế.

  2. Trong trường hợp mẹ bạn không để lại di chúc, phần tài sản của mẹ sẽ được phân chia theo quy định của pháp luật.

Theo Điều 651, Bộ Luật Dân sự 2015, bạn, anh/em của bạn và cha của bạn được xác định thuộc hàng thừa kế thứ nhất (nếu là những người còn lại trong hàng thừa kế thứ nhất).

Những người thừa kế cùng hàng sẽ được hưởng phần di sản bằng nhau, theo thỏa thuận giữa họ. Trong trường hợp không thỏa thuận được, các bên có thể khởi kiện ra tòa án để yêu cầu phân chia di sản thừa kế mà mẹ bạn để lại.

Do đó, cha của bạn không có quyền tự do định đoạt toàn bộ tài sản, vì căn nhà là phần tài sản gắn liền với di sản của mẹ bạn, chưa được phân chia trong quá trình thừa kế.

Nội dung bài viết:

    Đánh giá bài viết: (1079 lượt)

    Để lại thông tin để được tư vấn

    Họ và tên không được để trống

    Số điện thoại không được để trống

    Số điện thoại không đúng định dạng

    Email không được để trống

    Vấn đề cần tư vấn không được để trống

    Bài viết liên quan

    Phản hồi (0)

    Hãy để lại bình luận của bạn tại đây!

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo