Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 là một trong những pháp lệnh quan trọng nhất của Việt Nam về quản lý tài sản và di sản. Pháp lệnh này quy định về quyền thừa kế của công dân, quyền lập di chúc, thời điểm và địa điểm mở thừa kế, di sản và người thừa kế theo pháp luật. Mặc dù đã hết hiệu lực vào 01/07/1996 nhưng đây vẫn là một văn pháp luật chứa nhiều giá trị. Hãy cùng tìm hiểu về các quy định trong Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 qua bài viết dưới đây.
Pháp lệnh thừa kế 1990
1. Toàn văn Pháp lệnh Thừa kế 1990
HỘI ĐỒNG NHÀ NƯỚC |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 44-LCT/HĐNN8 |
Hà Nội, ngày 10 tháng 9 năm 1990 |
LỆNH
CÔNG BỐ PHÁP LỆNH THỪA KẾ
HỘI ĐỒNG NHÀ NƯỚC
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Căn cứ vào Điều 100 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Điều 34 của Luật Tổ chức Quốc hội và Hội đồng Nhà nước,
NAY CÔNG BỐ:
Pháp lệnh thừa kế đã được Hội đồng Nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 30 tháng 8 năm 1990.
|
T.M. HỘI ĐỒNG NHÀ NƯỚC |
PHÁP LỆNH
THỪA KẾ
Để bảo hộ quyền thừa kế của công dân;
Căn cứ vào Điều 27 và Điều 100 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Pháp lệnh này quy định quyền thừa kế của công dân.
Chương 1:
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1: Quyền thừa kế của công dân
Công dân có quyền lập di chúc đề định đoạt tài sản của mình, để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật, hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Điều 2: Quyền bình đẳng về thừa kế của công dân
Công dân không phân biệt nam, nữ đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác theo di chúc hoặc theo pháp luật, quyền hưởng di sản.
Điều 3: Thời điểm, địa điểm mở thừa kế
1- Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết hoặc được Toà án xác định là đã chết.
2- Địa điểm mở thừa kế là nơi thường trú cuối cùng của người để lại di sản. Nếu không xác định được nơi thường trú cuối cùng của người để lại di sản, thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ hoặc phần lớn di sản.
Điều 4: Di sản
1- Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác, quyền về tài sản do người chết để lại.
Tài sản gồm có tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, các thu nhập hợp pháp.
2- Trong trường hợp vợ hoặc chồng chết thì một nửa tài sản chung của vợ chồng thuộc về di sản của người chết.
Điều 5: Người thừa kế
1- Người thừa kế theo di chúc có thể là cá nhân, Nhà nước, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế.
Người thừa kế theo di chúc là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế. Người sinh ra sau khi người lập di chúc chết, nhưng đã thành thai trước khi người lập di chúc chết cũng là người thừa kế di chúc.
Người thừa kế là cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế phải là cơ quan, tổ chức còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
2- Người thừa kế theo pháp luật phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế. Con của người để lại di sản sinh ra sau khi người để lại di sản chết cũng là người thừa kế theo pháp luật của người chết.
Điều 6: Việc thừa kế của những người được coi là chết trong cùng một thời điểm
Trong trường hợp những người có quyền thừa kế tài sản của nhau đều chết mà không xác định được người nào chết trước, thì họ không được thừa kế tài sản của nhau và di sản của mỗi người do người thừa kế của người đó hưởng.
Điều 7: Những người thừa kế không có quyền hưởng di sản
1- Những người thừa kế sau đây không có quyền hưởng di sản:
a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ hoặc hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản;
b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế khác có quyền hưởng;
d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép người có tài sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, huỷ di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người có tài sản.
2- Những người nói tại khoản 1 Điều này vẫn được hưởng di sản, nếu người có tài sản thể hiện ý chí vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.
Điều 8: Nghĩa vụ về tài sản của người thừa kế
Người thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại.
Điều 9: Di sản thuộc về Nhà nước
Trong trường hợp không có người thừa kế hoặc những người thừa kế đều không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản, khước từ quyền hưởng di sản, thì di sản thuộc về Nhà nước.
Chương 2:
THỪA KẾ THEO DI CHÚC
Điều 10: Quyền lập di chúc
Công dân có quyền lập di chúc để chuyển quyền sở hữu một phần hoặc toàn bộ tài sản của mình cho một hoặc nhiều người trong hoặc ngoài các hàng thừa kế theo pháp luật, cũng như cho Nhà nước, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế.
Điều 11: Quyền của người lập di chúc
1- Khi lập di chúc người có tài sản có quyền:
a) Chỉ định người thừa kế;
b) Phân định tài sản cho người thừa kế;
c) Giao nghĩa vụ cho người thừa kế;
d) Truất quyền hưởng di sản của một hoặc nhiều người thừa kế theo pháp luật mà không nhất thiết phải nêu lý do.
2- Người lập di chúc có quyền sửa đổi, bổ sung di chúc đã lập, thay thế di chúc đã lập bằng di chúc khác, huỷ bỏ di chúc.
Điều 12: Di chúc hợp pháp
1- Di chúc hợp pháp là di chúc do người từ đủ mười tám tuổi trở lên tự nguyện lập trong khi minh mẵn, không bị lừa dối và không trái với quy định của pháp luật.
Di chúc cũng được coi là hợp pháp nếu do người từ đủ mười sáu tuổi trở lên nhưng chưa đủ mười tám tuổi tự nguyện lập trong khi minh mẵn, được sự đồng ý của cha mẹ hoặc người đỡ đầu, không bị lừa dối và không trái với quy định của pháp luật.
2- Di chúc do công dân Việt Nam lập ở nước ngoài theo pháp luật của nước ngoài, nếu có nội dung không trái với pháp luật của Việt Nam, cũng được coi là di chúc hợp pháp.
Điều 13: Nội dung bản di chúc
1- Trong bản di chúc phải ghi rõ: Ngày, tháng, năm lập di chúc; họ, tên và nơi thường trú của người lập di chúc; họ, tên người được hưởng di sản; tên cơ quan, tổ chức được hưởng di sản; tài sản, quyền về tài sản để lại cho người, cơ quan tổ chức được hưởng; nơi có tài sản đó. Nếu người lập di chúc giao nghĩa vụ cho người thừa kế thì phải nêu rõ là giao cho ai, nghĩa vụ gì.
2- Trong bản di chúc phải có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.
Điều 14: Di chúc viết được cơ quan công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân chứng thực
1- Người lập di chúc có thể yêu cầu cơ quan công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn chứng thực bản di chúc.
2- Người lập di chúc có thể tự viết hoặc nhờ người khác viết bản di chúc, nhưng người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ trước mặt người có trách nhiệm chứng thực của cơ quan công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn.
3- Trong trường hợp người lập di chúc không đọc bản di chúc được, không ký hoặc điểm chỉ được, thì phải nhờ người chứng kiến. Người chứng kiến đọc bản di chúc cho người lập di chúc nghe và ký vào bản di chúc trước mặt người có trách nhiệm chứng thực của cơ quan công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn.
4- Người có trách nhiệm của cơ quan công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân chứng thực vào bản di chúc trước mặt người lập di chúc, người chứng kiến.
Điều 15: Di chúc viết được cơ quan đại diện ngoại giao hoặc lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài chứng thực
Công dân Việt Nam đang ở nước ngoài có thể yêu cầu cơ quan đại diện ngoại giao hoặc lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài chứng thực di chúc theo thủ tục như quy định tại Điều 14 của Pháp lệnh này.
Điều 16: Di chúc viết có giá trị như di chúc được chứng thực
Các di chúc sau đây cũng có giá trị như di chúc được chứng thực:
1- Di chúc của quân nhân có xác nhận của thủ trưởng đơn vị quân đội từ cấp đại đội hoặc cấp tương đương trở lên trong trường hợp quân nhân không thể yêu cầu cơ quan công chứng, Uỷ ban nhân dân chứng thực;
2- Di chúc của người đang đi trên tầu biển, máy bay có xác nhận của người chỉ huy phương tiện đó;
3- Di chúc của người đang điều trị tại cơ sở chữa bệnh, cơ sở điều dưỡng có xác nhận của người phụ trách cơ sở đó;
4- Di chúc của người đang làm công việc khảo sát, thăm dò, nghiên cứu ở vùng rừng núi, hải đảo có xác nhận của người phụ trách đơn vị đó;
5- Di chúc của người đang bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, đang cải tạo ở trại cải tạo có xác nhận của người phụ trách cơ sở giam giữ, cải tạo đó.
Điều 17: Di chúc viết không có chứng thực, xác nhận
Di chúc viết không có chứng thực, xác nhận như quy định tại các Điều 14, 15, 16 của Pháp lệnh này chỉ được coi là di chúc hợp pháp, nếu đúng là do người để lại di sản tự nguyện lập trong khi minh mẫn, không bị lừa dối và không trái với quy định của pháp luật.
Điều 18: Di chúc miệng
1- Trong trường hợp tính mạng bị đe doạ nghiêm trọng mà không thể lập di chúc viết được thì có thể lập di chúc miệng.
2- Di chúc miệng cũng là di chúc hợp pháp nếu đúng là do người để lại di sản tự nguyện lập trong khi minh mẫn, không bị lừa dối và không trái với quy định của pháp luật.
3- Sau ba tháng kể từ ngày lập di chúc miệng, nếu người lập di chúc còn sống và minh mẫn, thì coi như di chúc miệng đó bị huỷ bỏ.
Điều 19: Người không được chứng thực, xác nhận di chúc, chứng kiến việc chứng thực di chúc
1- Người thừa kế theo pháp luật hoặc theo di chúc của người nào thì không được chứng thực hoặc xác nhận di chúc của người đó.
2- Người dưới mười sáu tuổi, người không minh mẫn không được làm người chứng kiến việc chứng thực di chúc.
Điều 20: Những người được hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc
Trong trường hợp không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu như di sản được chia theo pháp luật, thì những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng ít nhất là hai phần ba suất đó, trừ trường hợp họ là người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 7 của Pháp lệnh này:
a) Cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên không đủ khả năng lao động và túng thiếu;
b) Con chưa thành niên.
Điều 21: Di sản dùng vào việc thờ cúng
Nếu người lập di chúc có để di sản dùng vào việc thờ cúng thì di sản đó được coi như di sản chưa chia. Khi việc thờ cúng không được thực hiện theo di chúc thì những người thừa kế của người để lại di sản dùng vào việc thờ cúng có quyền hưởng di sản đó. Nếu những người thừa kế đó đều đã chết, thì di sản thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thừa kế theo pháp luật quy định tại Điều 25 và Điều 26 của Pháp lệnh này.
Điều 22: Sửa đổi, bổ sung, thay thế di chúc
1- Trong trường hợp người lập di chúc sửa đổi di chúc thì phần của di chúc không bị sửa đổi vẫn hợp pháp.
2- Trong trường hợp người lập di chúc bổ sung di chúc thì di chúc đã lập và điều bổ sung di chúc đều hợp pháp.
3- Trong trường hợp người lập di chúc thay thế di chúc thì coi như không có di chúc trước.
Điều 23: Hiệu lực của di chúc
1- Di chúc có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế.
Trong trường hợp di chúc do nhiều người lập chung, mà có người chết trước, thì chỉ phần di chúc có liên quan đến tài sản của người chết trước có hiệu lực.
2- Di chúc không có hiệu lực, nếu người thừa kế theo di chúc chết trước người lập di chúc, cơ quan, tổ chức được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. Trong trường hợp có nhiều người thừa kế theo di chúc mà có người chết trước người lập di chúc, cơ quan, tổ chức được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế, thì chỉ phần của di chúc có liên quan đến người chết trước, liên quan đến cơ quan, tổ chức không còn tồn tại đó không có hiệu lực.
3- Di chúc không có hiệu lực nếu tài sản, quyền về tài sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế. Nếu tài sản, quyền về tài sản để lại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì phần của di chúc về phần còn lại đó vẫn có hiệu lực.
4- Nếu di chúc có phần không hợp pháp thì chỉ phần đó không có hiệu lực.
Chương 3:
THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT
Điều 24: Những trường hợp thừa kế theo pháp luật
1- Người thừa kế theo pháp luật được hưởng di sản trong những trường hợp sau đây:
a) Không có di chúc;
b) Di chúc không hợp pháp;
c) Người thừa kế theo di chúc chết trước người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế;
d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc đều không có quyền hưởng di sản, khước từ quyền hưởng di sản.
2- Các phần di sản sau đây cũng do người thừa kế theo pháp luật hưởng:
a) Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;
b) Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực;
c) Phần di sản có liên quan đến người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, khước từ quyền hưởng di sản hoặc chết trước người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Điều 25: Những người thừa kế theo pháp luật
1- Những người thừa kế theo pháp luật gồm có:
a) Hàng thứ nhất: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.
b) Hàng thứ hai: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết.
c) Hàng thứ ba: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột.
2- Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản ngang nhau.
3- Trong trường hợp không có người thừa kế hàng thứ nhất hoặc những người thừa kế hàng thứ nhất đều không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản, khước từ quyền hưởng di sản, thì những người thừa kế hàng thứ hai được hưởng di sản.
4- Trong trường hợp không có người thừa kế hàng thứ nhất và hàng thứ hai hoặc những người thừa kế thuộc cả hai hàng này đều không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản, khước từ quyền hưởng di sản, thì những người thừa kế hàng thứ ba hưởng di sản.
Điều 26: Thừa kế thế vị
Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước người để lại di sản, thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng đã chết trước người để lại di sản, thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.
Điều 27: Quan hệ thừa kế giữa con nuôi với cha nuôi, mẹ nuôi và gia đình cha, mẹ đẻ
Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế tài sản của nhau và còn được thừa kế tài sản theo quy định tại Điều 25 và Điều 26 của Pháp lệnh này.
Điều 28: Quan hệ thừa kế giữa con riêng và cha kế, mẹ kế
Con riêng và cha kế, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế tài sản của nhau; ngoài ra họ vẫn được thừa kế tài sản theo quy định tại Điều 25 và Điều 26 của Pháp lệnh này.
Điều 29: Việc thừa kế trong trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung, đang xin ly hôn, đã kết hôn với người khác
1- Trong trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung theo Điều 18 của Luật hôn nhân và gia đình mà sau đó một người chết, thì người còn sống vẫn được thừa kế tài sản của người đã chết.
2- Trong trường hợp vợ, chồng xin ly hôn mà chưa được Toà án cho ly hôn bằng bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nếu một người chết, thì người còn sống vẫn được thừa kế tài sản của người đã chết.
3- Vợ goá hoặc chồng goá người đã chết dù kết hôn với người khác cũng vẫn được thừa kế tài sản của người đã chết.
Chương 4:
QUYỀN LỢI, NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI THỪA KẾ
Điều 30: Sự phát sinh quyền lợi, nghĩa vụ của người thừa kế
Từ thời điểm mở thừa kế, di sản thuộc quyền sở hữu của người thừa kế và từ đó họ có quyền lợi, nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại.
Điều 31: Khước từ quyền hưởng di sản
1- Người thừa kế có thể khước từ quyền hưởng di sản, trừ trường hợp việc khước từ đó nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ của bản thân về tài sản. Người thừa kế có thể nhường quyền hưởng di sản cho người thừa kế khác.
2- Thời hạn khước từ quyền hưởng di sản là sáu tháng, kể từ ngày người thừa kế biết thời điểm mở thừa kế.
3- Người khước từ quyền hưởng di sản phải thông báo việc khước từ cho người thừa kế khác, Uỷ ban nhân dân hoặc cơ quan công chứng nơi mở thừa kế.
Điều 32: Việc thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại
1- Nếu di sản chưa được chia thì người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại trong phạm vi di sản.
2- Nếu di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại tương ứng với phần di sản mà mình đã nhận.
3- Nếu Nhà nước, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế hưởng di sản theo di chúc, thì cũng thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.
Chương 5:
BẢO QUẢN, THANH TOÁN, PHÂN CHIA DI SẢN
Điều 33: Bảo quản di sản
1- Việc giao di sản chưa chia cho ai bảo quản do những người thừa kế quyết định.
2- Người bảo quản di sản chưa chia không được bán, cho, đổi, cầm cố, thế chấp di sản đó, trừ trường hợp được sự thoả thuận của những người thừa kế.
3- Trong trường hợp chưa xác định được người thừa kế hoặc di sản là tài sản vắng chủ, thì di sản do Nhà nước quản lý.
Điều 34: Thanh toán các khoản chi từ di sản trước khi chia di sản
Trước khi chia di sản, nếu có các khoản chi phí, cấp dưỡng, trợ cấp, nợ hoặc các khoản khác phải thanh toán từ di sản, thì thanh toán theo thứ tự sau đây:
1- Chi phí về mai táng cho người đã chết;
2- Tiền cấp dưỡng còn thiếu;
3- Tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ;
4- Tiền công lao động;
5- Tiền bồi thường thiệt hại;
6- Tiền thuế;
7- Tiền phạt;
8- Các món nợ khác của Nhà nước;
9- Các món nợ khác của công dân, pháp nhân;
10- Chi phí cho việc bảo quản di sản, các chi phí khác.
Điều 35: Phân chia di sản
1- Trong trường hợp những người thừa kế theo pháp luật không thoả thuận được với nhau về phân chia di sản thì những người thừa kế cùng hàng được chia phần di sản ngang nhau.
Khi phân chia di sản nếu có người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng chưa sinh ra, thì phải dành lại một phần di sản bằng phần mà người thừa kế khác được hưởng, để nếu người thừa kế đó còn sống khi sinh ra thì được hưởng, nếu chết trước khi sinh ra thì những người thừa kế khác được hưởng.
2- Những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản bằng hiện vật. Trong trường hợp không thể chia đều hiện vật thì người nhận hiện vật có giá trị cao phải thanh toán tiền chênh lệch cho người nhận hiện vật có giá trị thấp.
3- Di sản là hiện vật mà không có người thừa kế nào nhận thì được bán để chia tiền.
4- Trong trường hợp người lập di chúc không phân định tài sản cho những người thừa kế, thì việc phân chia di sản được thực hiện theo quy định tại các khoản 1, 2, 3 Điều này.
Điều 36: Thời hiệu khởi kiện về thừa kế
1- Trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế, người thừa kế có quyền khởi kiện để yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác.
2- Trong thời hạn ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại, thanh toán các khoản chi từ di sản.
3- Trong trường hợp do trở ngại khách quan mà không thể thực hiện được quyền khởi kiện trong thời hạn quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này thì thời gian bị trở ngại khách quan không tính vào thời hiệu khởi kiện.
4- Đối với các việc thừa kế đã mở trước ngày ban hành Pháp lệnh này thì thời hạn quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này được tính từ ngày công bố Pháp lệnh này.
Chương 6:
ĐIỀU KHOẢN CUỐI CÙNG
Điều 37: Quyền thừa kế của người nước ngoài
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ quyền thừa kế của người nước ngoài đối với tài sản có trên lãnh thổ Việt Nam theo quy chế về người nước ngoài tại Việt Nam, điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc công nhận.
Điều 38: Những quy định trước đây trái với Pháp lệnh này đều bãi bỏ.
|
T.M. HỘI ĐỒNG NHÀ NƯỚC |
Pháp lệnh thừa kế 1990
2. Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế
Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh thừa kế
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 02/HĐTP |
Hà Nội, ngày 19 tháng 10 năm 1990 |
NGHỊ QUYẾT
CỦA HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 02/HĐTP NGÀY 19 THÁNG 10 NĂM 1990 HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LỆNH THỪA KẾ
Pháp lệnh Thừa kế được Hội đồng Nhà nước thông qua ngày 30-8-1990. Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn các Toà án nhân dân các cấp áp dụng một số quy định của Pháp lệnh này như sau:
1. VỀ DI SẢN
Điều 4 của Pháp lệnh quy định: "Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác, quyền về tài sản do người chết để lại.
Tài sản gồm có tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, các thu nhập hợp pháp khác".
Khi xác định di sản, cần chú ý là:
a) Trong những năm gần đây, Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương đổi mới về kinh tế, do đó, phạm vi những tài sản thuộc quyền sở hữu của công dân đã được mở rộng hơn trước. Vì vậy di sản không chỉ là những đồ dùng hàng ngày, nhà ở, tư liệu sinh hoạt khác; của cải để dành; những công cụ sản xuất dùng trong những trường hợp được phép lao động riêng lẻ... như trước đây, mà còn bao gồm cả những máy móc, nhà xưởng, kho tàng, nguyên vật liệu...; vốn bằng tiền, vằng, ngoại tệ, với số lượng không hạn chế; cổ phiếu v. v... Do đó, tất cả mọi tài sản thuộc quyền sở hữu của một người sẽ trở thành di sản khi người đó chết.
Đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân, quyền sử dụng đất được giao không phải là quyền sở hữu về tài sản của công dân nên không thể trở thành di sản khi công dân chết. Các tranh chấp về di sản có liên quan đến quyền sử dụng đất được giải quyết theo quy định của Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đất đai.
b) Di sản còn là những quyền về tài sản phát sinh do quan hệ hợp đồng như quyền nhận tài sản mà người chết lúc còn sống đã cho vay, gửi giữ, gửi chữa, mua...; quyền nhận tiền công lao động, tiền nhuận bút, tiền bán hoặc cho sử dụng sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, tiền gửi tiết kiệm...; quyền của người chết được bồi thường thiệt hại về tài sản (như tiền bồi thường tư trang, hành lý của hành khách bị tai nạn giao thông; các khoản bồi thường khác của người chết khi còn sống...).
c) Những quyền về tài sản gắn liền với người chết như quyền được hưởng trợ cấp thương tật, tiền tuất, tiền cấp dưỡng... thì không phải là di sản.
d) Trong trường hợp người con dâu tham gia lao động chung trong gia đình bố, mẹ chồng, góp phần xây dựng, duy trì khối tài sản ở gia đình bố, mẹ chồng, thì khi xác định di sản của bố, mẹ chồng, Toà án phải coi khối tài sản ở gia đình bố, mẹ chồng là tài sản thuộc sở hữu chung và người con dâu là một đồng sở hữu chủ. Người con dâu có quyền được hưởng phần tài sản của mình trong khối tài sản chung hiện có với danh nghĩa là một đồng sở hữu chủ chứ không phải với danh nghĩa thừa kế của bố, mẹ chồng. Người con rể trong trường hợp tương tự cũng được giải quyết như người con dâu.
Ngoài ra, trong trường hợp chồng chết trước bố, mẹ chồng mà người con dâu vẫn ở lại trong gia đình bố, mẹ chồng và có công chăm sóc, nuôi dưỡng bố, mẹ chồng, nếu người con dâu có yêu cầu, thì Toà án trích một phần tài sản của bố, mẹ chồng để thanh toán về công sức và tài sản mà người con dâu đã dùng để chăm sóc, nuôi dưỡng bố, mẹ chồng. Người con rể trong trường hợp tương tự cũng được giải quyết như người con dâu.
2. VỀ NHỮNG NGƯỜI THỪA KẾ KHÔNG CÓ QUYỀN HƯỞNG DI SẢN
a) Người thừa kế đã bị kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản hoặc về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế khách có quyền hưởng, thì dù đã được xoá án cũng không có quyền hưởng di sản của người đã chết.
b) Những người có nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau theo quy định tại các điều 19, 20, 21, 23, 27 Luật Hôn nhân và gia đình (như cha mẹ và con, ông bà và cháu, anh chị em) trong khoảng thời gian 3 năm trước khi người để lại di sản chết, nếu có khả năng thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng mà không thực hiện làm cho người cần được nuôi dưỡng lâm vào tình trạng khổ sở hoặc nguy hiểm đến tính mạng, thì không có quyền hưởng di sản của người đó.
c) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép người có tài sản trong việc lập di chúc, giả mạo (sửa đổi, bổ sung, thay thế...) di chúc, huỷ (giấu, phá huỷ...) di chúc với mục đích để hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người có tài sản, thì không có quyền hưởng di sản của người đó.
Những người có hành vi quy định tại khoản 1 Điều 7 của Pháp lệnh không có quyền hưởng di sản theo pháp luật cũng như theo di chúc đã lập trước khi có hành vi đó. Tuy nhiên, họ vẫn được hưởng di sản trong các trường hợp sau đây:
- Người đã lập di chúc thể hiện ý chí bằng văn bản hoặc bằng lời nói vẫn cho họ được hưởng di sản theo di chúc đã lập.
- Người chưa lập di chúc thể hiện ý chí vẫn cho họ hưởng di sản bằng việc lập di chúc.
3. VỀ DI SẢN DÙNG VÀO VIỆC THỜ CÚNG
Điều 21 của Pháp lệnh đã quy định về di sản dùng vào việc thờ cúng. Nội dung của điều này được hiểu như sau: Nếu người lập di chúc có để lại di sản dùng vào việc thờ cúng thì di sản đó coi như di sản chưa chia. Nếu thời hiệu khởi kiện về thừa kế đang còn mà việc thờ cúng không dược thực hiện theo di chúc thì di sản dùng vào việc thờ cúng do những người thừa kế theo pháp luật được hưởng. Nếu thời hiệu khởi kiện về thừa kế đã hết mà việc thờ cúng không được thực hiện theo di chúc, thì người nào trong số những người thừa kế theo pháp luật đang quản lý hợp pháp di sản đó được hưởng di sản đó; nếu người đang quản lý hợp pháp di sản dùng vào việc thờ cúng không phải là người thừa kế theo pháp luật, thì người thừa kế theo quy định tại Điều 25 của Pháp lệnh Thừa kế mà đang còn sống vào thời điểm xảy ra tranh chấp về di sản đó được hưởng.
4. VỀ NHỮNG NGƯỜI THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT
a) Trong trường hợp một người có nhiều vợ (trước ngày 13-01-1960 - ngày công bố Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 - đối với miền Bắc; trước ngày 25-3-1977 - ngày công bố danh mục văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất trong cả nước - đối với miền Nam và đối với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau khi tập kết ra Bắc lấy thêm vợ mà việc kết hôn sau không bị huỷ bỏ bằng bản án có hiệu lực pháp luật), thì tất cả các người vợ đều là người thừa kế hàng thứ nhất của người chồng và ngược lại, người chồng là người thừa kế hàng thứ nhất của tất cả các người vợ.
b) Con trong giá thú hay con ngoài giá thú của một người đều là người thừa kế hàng thứ nhất của người đó.
Cha, mẹ của người con trong giá thú, cha, mẹ của người con ngoài giá thú là những người thừa kế hàng thứ nhất của người con của mình.
Người vừa có con trong giá thú vừa có con ngoài giá thú là người thừa kế hàng thứ nhất của tất cả các người con của mình.
c) Người vừa có con đẻ vừa có con nuôi là người thừa kế hàng thứ nhất của cả con đẻ và con nuôi của mình.
d) Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là những người thừa kế hàng thứ hai của cháu nội, cháu ngoại của mình; nhưng cháu nội, cháu ngoại không phải là người thừa kế hàng thứ hai của các ông, bà vì cha, mẹ của cháu (tức là con của ông, bà) là người thừa kế hàng thứ nhất của ông, bà, nếu cha, mẹ cháu chết trước ông, bà thì cháu là người thừa kế thế vị.
đ) Con nuôi không đương nhiên trở thành cháu của cha, mẹ của người nuôi dưỡng và cũng không đương nhiên trở thành anh, chị, em của con đẻ của người nuôi. Do đó, con nuôi không phải là người thừa kế theo pháp luật của cha, mẹ và con đẻ của người nuôi.
e) Anh ruột, chị ruột, em ruột là anh, chị, em cùng mẹ hoặc cùng cha, nghĩa là một người mẹ sinh bao nhiêu người con thì bấy nhiêu người con đó đều là anh, chị, em ruột của nhau, không phụ thuộc vào việc các con đó là cùng cha hay khác cha. Cũng tương tự như vậy, một người cha sinh ra bao nhiêu con thì bấy nhiêu người con đó đều là anh, chị, em ruột của nhau, không phụ thuộc vào việc các người con đó cùng mẹ hay khác mẹ. Con riêng của vợ và con riêng của chồng thì không phải là anh, chị, em ruột của nhau.
g) Cụ nội của một người là người sinh ra ông nội hoặc bà nội của người đó. Cụ ngoại của một người là người sinh ra ông ngoại hoặc bà ngoại của người đó. Như vậy, các cụ của một người gồm có cha đẻ, mẹ đẻ của ông nội, bà nội và cha đẻ, mẹ đẻ của ông ngoại, bà ngoại của người đó. Người đó là chắt của các cụ.
Các cụ là người thừa kế hàng thứ ba của chắt, nhưng chắt không phải là người thừa kế hàng thứ ba của các cụ (tương tự như ông, bà, là người thừa kế hàng thứ hai của cháu, nhưng cháu không phải là người thừa kế hàng thứ hai của ông, bà).
5. VỀ THỪA KẾ THẾ VỊ
Điều 26 quy định: "Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước người để lại di sản, thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ cháu hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng đã chết trước người để lại di sản, thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống".
Trong quy định trên có một số điểm cần chú ý như sau:
a) Cháu phải sống vào thời điểm ông, bà chết mới là người thừa kế thế vị tài sản của ông, bà. Chắt phải sống vào thời điểm cụ chết mới là người thừa kế thế vị tài sản của cụ.
b) Trong trường hợp con nuôi chết trước cha nuôi, mẹ nuôi, thì con của người nuôi (tức là cháu của cha nuôi, mẹ nuôi) được hưởng phần di sản mà đáng lẽ cha, mẹ của chắt được hưởng nếu cha, mẹ của chắt còn sống vào thời điểm mở thừa kế.
c) Cháu sinh ra sau khi ông, bà chết nhưng đã thành thai trước khi ông, bà chết cũng là người thừa kế thế vị tài sản của ông, bà. Chắt sinh ra sau khi cụ chết, nhưng đã thành thai trước khi cụ chết cũng là người thừa kế thế vị tài sản của cụ.
d) Các cháu được hưởng chung phần di sản mà đáng lẽ cha, hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu cha, hoặc mẹ của cháu không chết trước ông, bà. Trong trường hợp các cháu đều đã chết trước ông, bà thì chắt được hưởng thừa kế thế vị. Các chắt được hưởng chung phần di sản mà đáng lẽ cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu cha hoặc mẹ của chắt không chết trước cụ của chắt.
6. VỀ VIỆC THỪA KẾ TÀI SẢN CỦA CON NUÔI, CHA NUÔI, MẸ NUÔI
Điều 27 quy định: "Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế tài sản của nhau và còn được thừa kế tài sản theo quy định tại Điều 25 và Điều 26 của Pháp lệnh này".
Quy định trên được hiểu như sau:
a) Về phía gia đình cha nuôi, mẹ nuôi: con nuôi chỉ có quan hệ thừa kế với cha nuôi, mẹ nuôi mà không có quan hệ thừa kế với cha, mẹ và con đẻ của người nuôi.
Trong trường hợp người có con nuôi kết hôn với người khác thì người con nuôi không đương nhiên trở thành con nuôi của người khác đó cho nên họ không phải là người thừa kế của nhau theo pháp luật.
b) Về phía gia đình cha, mẹ đẻ: Người đã làm con nuôi của người khác vẫn có quan hệ thừa kế với cha đẻ, mẹ đẻ, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột, bác ruột, chú ruột, cô ruột, dì ruột theo quy định tại Điều 25 và Điều 26 Pháp lệnh Thừa kế như người không làm con nuôi của người khác.
7. VỀ QUAN HỆ THỪA KẾ GIỮA CON RIÊNG VÀ CHA KẾ, MẸ KẾ
Điều 27 quy định: "Con riêng và cha kế, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế tài sản của nhau, ngoài ra họ vẫn được thừa kế tài sản theo quy định tại Điều 25 và Điều 26 của Pháp lệnh này".
Trong quy định trên, có một số điểm cần chú ý như sau:
a) Nói chung con riêng và cha kế, mẹ kế không được thừa kế tài sản của nhau, vì không có quan hệ huyết thống với nhau.
Tuy nhiên, nếu cha kế, mẹ kế chăm sóc, nuôi dưỡng con riêng thì cha kế, mẹ kế là người thừa kế hàng thứ nhất của con riêng, nếu con riêng chăm sóc, nuôi dưỡng cha kế, mẹ kế thì con riêng là người thừa kế hàng thứ nhất của cha kế, mẹ kế; nếu cha kế, mẹ kế chăm sóc, nuôi dưỡng con riêng và con riêng cũng chăm sóc, nuôi dưỡng cha kế, mẹ kế thì họ là người thừa kế hàng thứ nhất của nhau.
8. VỀ VIỆC KHƯỚC TỪ QUYỀN HƯỞNG DI SẢN,NHƯỜNG QUYỀN HƯỞNG DI SẢN
Khước từ quyền hưởng di sản là việc người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật hoàn toàn từ bỏ quyền hưởng di sản. Việc người thừa kế nhường quyền hưởng di sản cho người thừa kế theo di chúc hoặc cho người thừa kế theo pháp luật cũng được coi là khước từ quyền hưởng di sản. Toà án không chấp nhận việc người thừa kế khước từ quyền hưởng di sản nếu thấy việc khước từ đó nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ của bản thân về trả nợ, bồi thường thiệt hại, đóng góp phí tổn nuôi con hoặc cấp dưỡng cho vợ, chồng sau khi ly hôn...
9. VỀ PHÂN CHIA DI SẢN
Khi phân chia di sản theo quy định tại Điều 35 của Pháp lệnh, cần chú ý một số điểm sau:
a) Nếu có người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng chưa sinh ra, thì Toà án phải dành lại một phần di sản bằng phần mà người thừa kế khác được hưởng để nếu người thừa kế đó còn sống khi sinh ra thì được hưởng, nếu chết trước khi sinh ra thì những người thừa kế khác cùng hàng được hưởng chung phần di sản đó. Trong trường hợp sinh đôi, sinh ba... nếu những người mới sinh ra còn sống từ hai người trở lên và đương sự có yêu cầu, thì phải huỷ bản án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục tái thẩm để phân chia lại tài sản nhằm bảo đảm quyền được hưởng phần di sản ngang nhau của những người thừa kế cùng hàng.
b) Những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản bằng hiện vật. Trong trường hợp không thể phân chia được hiện vật hoặc không thể chia đều hiện vật thì người nhận toàn bộ hiện vật hoặc nhận hiện vật có giá trị cao phải thanh toán tiền chênh lệch cho người không nhận hiện vật hoặc nhận hiện vật có giá trị thấp. Tuy nhiên, khi phân chia tài sản, Toà án cần chú ý bảo đảm tối đa giá trị sử dụng tài sản, khả năng sử dụng hợp lý tài sản, ổn định đời sống của những người thừa kế và bảo đảm đoàn kết trong gia đình.
10. VỀ THỜI HIỆU KHỞI KIỆN
Khi áp dụng thời hiệu khởi kiện về thừa kế theo quy định Điều 36 của Pháp lệnh Thừa kế cần chú ý như sau:
a) Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà công dân, tổ chức có quyền khởi kiện để yêu cầu Toà án bảo vệ lợi ích của mình. Quá thời hạn đó, họ không có quyền khởi kiện nữa. Có hai thời hạn cho hai loại quyền khởi kiện khác nhau đã được quy định cụ thể tại khoản 1 và khoản 2 của Điều 36, khi áp dụng cần tránh nhầm lẫn.
b) Đối với những việc thừa kế đã mở trước ngày 10-9-1990, thì thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày 10-9-1990, do đó:
- Sau ngày 10-9-2000, đương sự không có quyền khởi kiện để yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác;
- Sau ngày 10-9-1993, đương sự không có quyền khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại, thanh toán các chi phí từ di sản.
c) Đối với trường hợp đã quá các thời hạn quy định tại Điều này mà đương sự mới khởi kiện vì có trở ngại khách quan như đương sự bị mất năng lực hành vi, do ốm đau, tai nạn... thì Toà án vẫn thụ lý và giải quyết theo thủ tục chung. Trong trường hợp đương sự đã không thực hiện quyền khởi kiện trong thời hạn quy định mà không có lý do chính đáng thì Toà án trả lại đơn kiện cho đương sự theo quy định tại khoản 2 Điều 36 của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự.
d) Đối với người thừa kế là người chưa thành niên vào thời điểm mở thừa kế thì thời hiệu khởi kiện về thừa kế được tính từ ngày họ đủ 18 tuổi.
e) Pháp lệnh Thừa kế có hiệu kể từ ngày Chủ tịch Hội đồng Nhà nước ký lệnh công bố Pháp lệnh là ngày 10-9-1990. Do đó, kể từ ngày 10-9-1990, đối với các vụ án về thừa kế đang được giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm hoặc đã có kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, thì đều phải áp dụng các quy định của Pháp lệnh để giải quyết.
Đối với những vụ án về thừa kế đã được giải quyết trước ngày 10-9-1990 theo đúng Thông tư số 81/TANDTC ngày 24-7-1981 của Toà án nhân dân tối cao mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì không áp dụng các quy định của Pháp lệnh này để giải quyết lại theo thủ tục giám đốc thẩm.
|
Phạm Hưng (Đã ký) |
3. Câu hỏi thường gặp
Câu hỏi 1: Ai có quyền thừa kế theo pháp luật Việt Nam?
Câu trả lời: Theo Điều 5 của Pháp lệnh Thừa kế năm 1990, người thừa kế theo pháp luật phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế. Con của người để lại di sản sinh ra sau khi người để lại di sản chết cũng là người thừa kế theo pháp luật của người chết.
Câu hỏi 2: Người thừa kế có quyền gì?
Câu trả lời: Theo Điều 1 của Pháp lệnh Thừa kế năm 1990, công dân có quyền lập di chúc đề định đoạt tài sản của mình, để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật, hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Câu hỏi 3: Thời điểm và địa điểm mở thừa kế là gì?
Câu trả lời: Theo Điều 3 của Pháp lệnh Thừa kế năm 1990, thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết hoặc được Toà án xác định là đã chết. Địa điểm mở thừa kế là nơi thường trú cuối cùng của người để lại di sản. Nếu không xác định được nơi thường trú cuối cùng của người để lại di sản, thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ hoặc phần lớn di sản.
Câu hỏi 4: Tài sản bao gồm những gì?
Câu trả lời: Theo Điều 4 của Pháp lệnh Thừa kế năm 1990, di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác, quyền về tài sản do người chết để lại. Tài sản gồm có tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, các thu nhập hợp pháp. Trong trường hợp vợ hoặc chồng chết thì một nửa tài sản chung của vợ chồng thuộc về di sản của người chết.
Nội dung bài viết:
Bình luận