Luận cứ chia di sản thừa kế

Trong xã hội hiện đại, vấn đề chia di sản thừa kế ngày càng trở nên phức tạp và đau lòng, khiến nhiều gia đình đối mặt với những cuộc tranh chấp không đáng có. Bài viết này sẽ đưa bạn khám phá thực trạng tranh chấp di sản thừa kế, đồng thời đi sâu vào phân tích quy định pháp luật về vấn đề này. Từ tình huống thực tế, bài viết sẽ đưa ra những luận điểm chứng minh và những luận cứ chia di sản thừa kế trong lập luận của những luật sư chuyên gia để giải quyết những cuộc chiến tranh chấp di sản thừa kế, những biện pháp bảo vệ quyền lợi,... Hãy cùng khám phá giải pháp để giảm thiểu những cuộc tranh chấp đau lòng và bảo vệ giá trị gia đình.

Luận cứ chia di sản thừa kế

Luận cứ chia di sản thừa kế

1. Những vấn đề pháp lý về tranh chấp và phân chia di sản thừa kế

 1.1. Thực trạng tranh chấp chia di sản thừa kế

Nhiều gia đình đang phải đối mặt với những thách thức đau lòng liên quan đến tranh chấp di sản thừa kế. Trong khi nhiều vụ án tranh chấp đất đai giữa hàng xóm là điều phổ biến, thì tranh chấp về tài sản mà ông bà, cha mẹ để lại ngày càng trở thành nguồn gốc của những cuộc chiến không lẫn vào đâu được.

Gia đình, thường là nguồn động viên và sự an toàn tinh thần, lại trở thành đối tượng của những cuộc chiến đầy đau thương. Một số gia đình chọn giải quyết mâu thuẫn thông qua hành động pháp lý tại Toà án, trong khi những hành động khác bao gồm sử dụng bạo lực hoặc thậm chí là thuê người để thực hiện hành vi đe dọa, bạo lực đối với người nhà chỉ để giành lại vài mét vuông đất, đó là di sản quý báu mà cha mẹ đã để lại. Những cuộc chiến tranh như vậy, dù kết quả là thắng hay thua, vẫn để lại những vết thương không thể lành và gây hậu quả nặng nề cho tâm hồn và sức khoẻ của những người tham gia.

Nguyên Nhân Đằng Sau Các Cuộc Chiến

Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến những cuộc tranh chấp này là thiếu di chúc từ phía người để lại. Nhiều gia đình không thường xuyên lập di chúc, không tạo ra một tài sản pháp lý để chia sẻ tài sản khi họ còn sống khỏe mạnh và tinh thần minh mẫn. Điều này đặc biệt rõ ràng ở các vùng nông thôn, nơi mọi người tuân theo những truyền thống và đạo đức gia đình.

Sự phát triển kinh tế - xã hội cũng đóng góp vào sự phức tạp của vấn đề. Giá trị đạo đức và sự gắn kết gia đình giảm bớt, khiến cho vật chất trở thành ưu tiên hơn giá trị tinh thần và tình cảm gia đình. Trong môi trường này, những cuộc tranh chấp thường xảy ra do sự thiếu thỏa thuận giữa các thành viên gia đình, không công bằng trong việc thương lượng, hoặc sự lợi dụng của những người thừa kế không hiểu biết đầy đủ. Sự lòng tham, sự bất chấp pháp luật, và sự lợi dụng mối quan hệ xã hội rộng cũng là những nguyên nhân đáng lo ngại, khiến cho sự công bằng và minh bạch trở nên xa xôi.

Trong tình cảnh này, việc thực hiện biện pháp như việc lập di chúc rõ ràng và minh bạch trở thành cần thiết để ngăn chặn những cuộc chiến vô ích và bảo vệ giá trị tình thân và tinh thần của gia đình

1.2. Quy định pháp luật về chia di sản thừa kế

Quyền thừa kế theo Bộ luật Dân sự 2015

Trên phương diện pháp lý, quyền thừa kế là một trong những chế định quan trọng được quy định trong Bộ luật Dân sự 2015. Theo đó, "Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật".

Từ quy định trên có thể thấy, mọi cá nhân, không phân biệt nam, nữ, tuổi tác, thành phần, tôn giáo, địa vị chính trị xã hội… đều có quyền để lại tài sản của mình cho người khác, cũng như quyền được hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.

Thừa kế theo di chúc và theo pháp luật

Trường hợp thừa kế theo di chúc, tức là khi có di chúc của người chết để lại, việc phân chia di sản phải tuân theo ý nguyện của người lập di chúc đã ghi rõ trong di chúc. Ngược lại, thừa kế theo pháp luật sẽ theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định.

Nếu phân chia theo pháp luật, căn cứ vào Điều 651, Bộ luật Dân sự 2015, những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự từ hàng thừa kế thứ nhất đến hàng thừa kế thứ 3; những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự về quyền thừa kế

Để thực hiện và đảm bảo quyền thừa kế của cá nhân, pháp luật dân sự cũng quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự về quyền thừa kế. Theo Điều 623, Bộ luật Dân sự 2015, thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Từ những quy định trên có thể thấy, việc người chết không để lại di chúc hoặc di chúc không hợp pháp sẽ dẫn đến phân chia di sản theo Điều 651, Bộ luật Dân sự 2015. Điều này tạo nên những bi kịch trong gia đình khi các bên không thống nhất phân chia và phải chờ đợi thời gian dài, gây mất mát tinh thần và tài chính đồng thời tăng chi phí pháp lý.

2. Luận cứ bảo vệ vụ việc “tranh chấp di sản thừa kế” 

Luận cứ của vụ án dân sự về việc Tranh chấp di sản thừa kế

Ngày 18/02/2022, Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 167/2021/TLPT-DS ngày 18/11/2021 về việc: “Tranh chấp di sản thừa kế”, Tòa án đã đưa ra những luận điểm và luận cứ cho nhận định như sau:

1. Về tố tụng

Sự vắng mặt của các đương sự được thực hiện theo quy định Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự, được đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang đề xuất và Tòa án xét xử vắng mặt các đương sự theo đúng quy định.

Bà Thân Thị B và người đại diện theo ủy quyền của bà B vắng mặt lần thứ 2 không có lý do.

2. Về nội dung kháng cáo

  • Đối với kháng cáo hủy án sơ thẩm, việc không có chứng cứ hợp lệ cho di chúc miệng của cụ Cần và cụ Giới làm cho di chúc không hợp pháp theo Điều 630 Bộ luật dân sự. Như vậy, nếu cụ Cần và cụ Giới có di chúc miệng cho ông D và anh H thì di chúc cũng không hợp pháp, Tòa án cấp sơ thẩm chia di sản thừa kế theo pháp luật là có căn cứ.
  • Kháng cáo về giá đất quá cao không được chấp nhận do quy trình định giá tài sản đúng và cũng không có sự phản đối để định giá lại. Tòa án cấp sơ thẩm giao cho anh C được nhận di sản bằng quyền sử dụng đất và có trách nhiệm trích trả cho các đồng thừa kế khác bằng tiền. Nếu giá đất quá cao thì người bị thiệt là anh C chứ không phải ông D, tuy nhiên anh C cũng không có ý kiến gì về giá, các đồng thừa kế khác không bị thiệt hại.
  • Đề xuất sửa án sơ thẩm về việc trích trả tiền công sức quản lý và giá trị kỷ phần thừa kế là không cần thiết, vì quyền lợi của các đương sự không bị ảnh hưởng và có thể giải quyết thông qua vụ án khác. Trong quá trình giải quyết vụ án, anh H và ông D chưa nộp tiền tạm ứng án phí chia di sản thừa kế. Tòa án cấp sơ thẩm tạm giao kỷ phần thừa kế của ông D và anh H cho anh C quản lý là có căn cứ. Quyền lợi của anh H và ông D không bị ảnh hưởng, ông D và anh H có thể khởi kiện bằng vụ án khác nếu có yêu cầu.

3. Về án phí DSPT:

  • Ông Thân Văn D được miễn án phí DSPT theo quy định Điều 12 Nghị quyết 326 vì là người cao tuổi.

Từ những điểm trên, có thể chứng minh rằng các quyết định của Tòa án sơ thẩm là hợp pháp và có căn cứ. 

Luận điểm mà tòa án muốn chứng minh được ghi trong Quyết định như sau:

Căn cứ khoản 2 Điều 308, 309 Bộ luật Tố tụng dân sự

1. Không chấp nhận kháng cáo của ông Thân Văn D, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 28/2021/DS-ST ngày 29/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện Yên Dũng.

2. Về án phí: Ông Thân Văn D được miễn tiền án phí dân sự phúc thẩm.

Án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

3. Luận cứ sơ thẩm Di chúc thừa kế

Luận cứ sơ thẩm Di chúc thừa kế

Luận cứ sơ thẩm Di chúc thừa kế

Luận cứ của vụ việc Tranh chấp chia di sản thừa kế

Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ “Tranh chấp chia thừa kế” tại TAND Q. Đống Đa, Hà Nội, một số luận cứ đã được trình bày để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn như sau:
1. Khi lập di chúc cụ Mai Thị Đạt không minh mẫn, sáng suốt
  • Thứ nhất, cụ Đạt tự xác định không có con đẻ, xác định con đẻ thành con
    nuôi và quên con nuôi của mình
  • Thứ hai, cụ Mai Thị Đạt không nhớ tên các cháu ruột
2. Việc lập Di chúc có dấu hiệu bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép
  • Thứ nhất, Cụ Đạt lập di chúc ở tuổi 90, sức khỏe bị tai biến, sa sút về trí tuệ là thực tế. Các thừa kế bị đơn là người trực tiếp chăm sóc, phụng dưỡng cụ cho biết cụ không tự mình làm được những việc sinh hoạt thông thường như ăn uống, tắm giặt… nên việc cụ đi một mình từ nhà đến VPLS Khánh Hưng để lập di chúc, là không phù hợp.

  • Thứ hai, các bị đơn có đưa ra thắc mắc và hoàn toàn có lý khi cho rằng ngay gần nhà có UBND phường, có văn phòng luật sư nhưng cụ không lập Di chúc ở đó mà lại đến VPLS Khánh Hưng ở rất xa để lập.

  • Thứ ba, tại phiên tòa, nguyên đơn không xuất trình được phiếu nộp tiền thù lao lập di chúc để chứng minh cụ Đạt tự mình nộp tiền, qua đó để chứng minh cụ Đạt minh mẫn, sáng suốt, không bị người khác dẫn dụ, ép buộc khi lập di chúc. Luật sư có thể cho rằng không phiếu thu không lưu quá 05 năm, nhưng Biên bản tiêu hủy chứng từ kế toán (tức tiêu hủy phiếu thu đó) phải là 10 năm theo quy định tại Điều 13 Nghị định số 174/2016/NĐ-CP của Chính phủ. Hơn nữa, Hóa đơn GTGT cho dịch vụ pháp lý của luật sư là loại tài liệu kế toán phải lưu trữ tối thiểu 10 năm theo quy định tại Điều 13 Nghị định 174 nêu trên. Điều này cũng phù hợp với sự việc Di chúc của cụ được giao cho nguyên đơn giữ (theo trình bày của luật sư nguyên đơn tại phiên tòa), nguyên đơn là người liên hệ với luật sư để công bố di chúc.

  • Thứ tư, về việc công bố di chúc cũng không phải ý nguyện của cụ Đạt, vì không có tài liệu chứng minh việc này. Theo luật sư nguyên đơn nói rằng cụ nhờ miệng, tuy nhiên đây là việc thực hiện vượt quá dịch vụ pháp lý của luật sư theo quy định về Hợp đồng dịch vụ pháp lý tại Luật luật sư, Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp Luật sư Việt Nam.

  • Hơn nữa, việc công bố di chúc được quy định chặt chẽ tại Điều 647 BLDS, trong đó quy định những chủ thể có quyền công bố di chúc là: nếu di chúc bằng văn bản lưu trữ tại tổ chức hành nghề công chứng thì công chứng viên có quyền công bố di chúc; trường hợp người để lại di chúc chỉ định người công bố di chúc thì người được chỉ định công bố di chúc. Văn phòng LS Khánh Hưng không có tài liệu chứng cứ chứng minh được rằng cụ Đạt chỉ định công bố di chúc, nên việc gửi văn bản cho những người thừa kế, cho Công ty Phúc Anh (là bên thuê nhà) yêu cầu có mặt tại VPLS Khánh Hưng để công bố di chúc là trái quy định của pháp luật. Điều 647 BLDS cho phép trường hợp không có người công bố di chúc thì những người thừa kế có thể cử người công bố di chúc. Vậy vì sao 6 đồng nguyên đơn có Di chúc lại không thực hiện theo luật? Phải chăng việc này có sự liên quan đến sự bất minh trong việc lập Di chúc của cụ Đạt?

  • Thứ năm, chúng tôi cho rằng việc nguyên đơn có dấu hiệu ép buộc cụ Đạt lập Di chúc là có cơ sở, vì trong Di chúc, 6 đồng nguyên đơn – những người được thừa kế là cháu họ, là em dâu, là chắt họ của cụ Đạt được nêu tên cực kỳ chính xác, trong khi các cháu ruột của cụ Đạt đã sinh sống, ăn ở với cụ từ khi sinh ra, gần gũi với cụ hàng ngày, hàng giờ thì lại không được ghi chính xác tên.

3. Nội dung Di chúc ngày 21/3/2011 trái quy định của pháp luật:
  • Di chúc không tuân theo quy định về người làm chứng Di chúc
  • Di chúc vi phạm quy định tại điểm c khoản 1 Điều 653 BLDS: “Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản hoặc xác định rõ các điều kiện để cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản”
  • Người lập Di chúc không có quyền định đoạt toàn bộ di sản
    • Một là, cụ Đạt định đoạt phần di sản của cụ Đinh Văn Thơm
    • Hai là, cụ Đạt định đoạt tài sản của vợ chồng bà Vân và các con bà Vân
    • Ba là, nguồn gốc tài sản cụ Đạt định đoạt trong di chúc không phải là tài sản do cụ Mai Thế Hoàn (đã chết năm 1957) tặng cho riêng
  • Bị đơn Mai Thế Phái không được quyền hưởng di sản theo Di chúc về nghĩa vụ chăm sóc, phụng dưỡng cụ Đạt từ ngày
    lập Di chúc 21/3/2011 đến ngày cụ mất là ngày 30/12/2013 thì ông Mai Thế Phái đã không thực hiện nghĩa vụ của mình. Do vậy, thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 643 BLDS 2005: “Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản” là người không được quyền hưởng di sản.

Luận điểm của vụ việc

Từ những luận cứ đã phân tích ở trên, đủ cơ sở xác định Di chúc ngày 21/3/2011 của cụ Mai Thị Đạt vi phạm pháp luật, không bảo đảm năng lực hành vi dân sự của chủ thể lập di chúc nên Di chúc vô hiệu toàn bộ.
Khẳng định luận điểm chính là Đề nghị HĐXX không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

4. Câu hỏi thường gặp

Câu hỏi 1: Trong công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án tranh chấp chia di sản thừa kế theo thủ tục sơ thẩm, cách xác định tính hợp pháp của di chúc?

Di chúc trong trường hợp tranh chấp chia di sản thừa kế theo di chúc cần được xác định trước khi người để lại qua đời. Di chúc có thể là miệng hoặc bằng văn bản (không có người làm chứng, có người làm chứng, có công chứng hoặc chứng thực). Việc xác định tính hợp pháp của di chúc là quan trọng, và di chúc hợp pháp là di chúc tuân thủ đầy đủ các điều kiện pháp luật. Di chúc không phát sinh hiệu lực nếu di sản không còn vào thời điểm mở thừa kế hoặc chỉ còn một phần. Di chúc không hợp pháp chỉ ảnh hưởng đến phần đó mà không làm mất hiệu lực của các phần khác. Trong trường hợp nhiều bản di chúc, chỉ bản sau cùng có hiệu lực pháp luật. Nếu di chúc được chấp nhận và phù hợp với pháp luật, vẫn cần chú ý rằng quyết định thừa kế không nhất thiết phải tuân theo di chúc

Câu hỏi 2: Cần lưu ý điều gì trong công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án tranh chấp chia di sản thừa kế theo thủ tục phúc thẩm?

Hoạt động kiểm sát vụ án tranh chấp chia di sản thừa kế theo thủ tục phúc thẩm tương tự như sơ thẩm, tuân theo quy định tại Điều 21, Điều 57, Điều 58, Điều 59 BLTTDS và các văn bản hướng dẫn liên quan. Việc này bao gồm quy định về thủ tục giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục phúc thẩm, cũng như hướng dẫn hoạt động của Kiểm sát viên trong phiên tòa dân sự phúc thẩm, được quy định theo Quyết định số 363/QĐ-VKSTC ngày 12/10/2020 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Trong quá trình này, kiểm sát viên tập trung vào kết quả giải quyết của Tòa án cấp sơ thẩm, cũng như xem xét nội dung kháng cáo từ đương sự và kháng nghị từ Viện kiểm sát

Câu hỏi 3: Theo quy định nào pháp luật, việc giải quyết vụ án tranh chấp chia di sản thừa kế được thực hiện?

Việc này được thực hiện theo quy định tại Điều 21, Điều 57, Điều 58, Điều 59 BLTTDS và các quy định khác của BLTTDS. Hướng dẫn chi tiết được cung cấp trong văn bản số 24/HD-VKSTC.

Nội dung bài viết:

    Đánh giá bài viết: (615 lượt)

    Để lại thông tin để được tư vấn

    Họ và tên không được để trống

    Số điện thoại không được để trống

    Số điện thoại không đúng định dạng

    Email không được để trống

    Vấn đề cần tư vấn không được để trống

    Bài viết liên quan

    Phản hồi (0)

    Hãy để lại bình luận của bạn tại đây!

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo