1. Pháp luật tố tụng hình sự quy định như thế nào về sự tham gia của người làm chứng?
- Pháp luật tố tụng hình sự quy định về người làm chứng và sự tham gia của người làm chứng trong tố tụng hình về cơ bản đã đáp ứng yêu cầu bảo vệ quyền con người và đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta trong tình hình mới.
- Cụ thể theo khoản 1 Điều 66 BLTTHS năm 2015 thì: “Người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng”. Như vậy, trước hết, người làm chứng là người tham gia tố tụng theo quy định của BLTTHS năm 2015. Pháp luật quy định cho họ có nghĩa vụ phải tham gia vào quá trình giải quyết vụ án hình sự, thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình với tư cách cá nhân.
- Khi tham gia tố tụng, người làm chứng không có quyền lợi cá nhân mà chỉ là người có nghĩa vụ do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập để góp phần giải quyết vụ án hình sự. Theo đó, dưới góc độ pháp luật thực định, người làm chứng là người tham gia tố tụng bởi họ biết được người biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng.
Vậy nói tóm lại người làm chứng họ tham gia tố tụng với tư cách là một chủ thể độc lập khách quan đối với vụ án. Họ không có bất kỳ quyền lợi cá nhân nào mà chỉ có nghĩa vụ đối với cơ quan tiến hành tố tụng.
Người làm chứng
2. Các hoạt động của người làm chứng trong tố tụng hình sự
- Trong tố tụng hình sự, người làm chứng là người biết các tình tiết có liên quan đến vụ án, nhưng không phải là người có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án nên lời khai của người làm chứng thường phản ánh trung thực, khách quan, có ý nghĩa trong việc xác định sự thật của vụ án. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định người làm chứng có nghĩa vụ tham gia một số hoạt động tố tụng trong giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Quá trình người làm chứng tham gia các hoạt động tố tụng hình sự, người có thẩm quyền tiến hành điều tra phải tuân thủ trình tự, thủ tục tố tụng do luật định, đảm bảo các quyền của người làm chứng theo quy định tại khoản 3 Điều 66 BLTTHS năm 2015. Xuất phát từ việc trình bày trung thực những tình tiết mà mình biết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án là nghĩa vụ của người làm chứng nên quá trình tham gia các hoạt động tố tụng, người làm chứng đều được người có thẩm quyền tố tụng giải thích về trường hợp họ khai báo gian dối hoặc từ chối khai báo, trốn tránh việc khai báo mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự.
Một: Tham gia hoạt động khám nghiệm hiện trường
- Trong nhiều trường hợp, sự tham gia của người làm chứng trong hoạt động khám nghiệm hiện trường là một nguồn cung cấp các thông tin giúp Điều tra viên đánh giá tình trạng hiện trường còn nguyên vẹn hay đã bị thay đổi, những nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi, các hoạt động tạo nên các dấu vết ở hiện trường, phạm vi hiện trường… Khi khám nghiệm hiện trường, Điều tra viên cho người làm chứng tham gia trong trường hợp họ đã trực tiếp có mặt tại hiện trường, đủ điều kiện quan sát các hành vi của người có liên quan và sự vật, sự việc… tại thời điểm tội phạm xảy ra.
Hai: Hoạt động lấy lời khai người làm chứng
- Lấy lời khai của người làm chứng là một trong những hoạt động thu thập chứng cứ phổ biến của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người làm chứng trình bày những gì mà họ biết về nguồn tin về tội phạm, về vụ án, nhân thân của người bị buộc tội, bị hại, quan hệ giữa họ với người bị buộc tội, bị hại, người làm chứng khác... Điều đó cho thấy, lời khai của người làm chứng có thể cung cấp nhiều thông tin khác nhau như các tình tiết của sự kiện pháp lý, nhân thân của người bị buộc tội, nhân thân bị hại… Người tiến hành tố tụng phải có sự kiểm tra, đánh giá các thông tin đó để xác định thông tin nào có thể là chứng cứ của vụ án hình sự, bởi lẽ chỉ những thông tin từ lời khai của người làm chứng đảm bảo các thuộc tính của chứng cứ bao gồm tính khách quan, tính liên quan, tính hợp pháp thì mới trở thành chứng cứ của vụ án hình sự; không được dùng làm chứng cứ những tình tiết do người làm chứng trình bày nếu họ không thể nói rõ vì sao biết được tình tiết đó. Việc xác định lý do biết được tình tiết liên quan của người làm chứng chính là xác định nguồn gốc lời khai của người làm chứng, từ đó có biện pháp kiểm tra, đánh giá chứng cứ một cách hợp lý.
Ba: Tham gia hoạt động đối chất
- Đối chất có thể được tiến hành giữa người làm chứng với những người có tư cách là người tham gia tố tụng trong vụ án hình sự khác mà trước đó họ đã có lời khai theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Như vậy, việc đối chất có sự tham gia của người làm chứng có thể được tiến hành giữa người làm chứng với bị can, người làm chứng với bị hại hoặc giữa những người làm chứng với nhau.
Bốn: ham gia hoạt động nhận dạng
- Khi cần thiết, người làm chứng sẽ được người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đưa người, ảnh hoặc vật để người làm chứng quan sát, từ đó xác định có hay không có người, vật mà họ đã nhìn thấy trước đó. Người làm chứng tham gia nhận dạng sẽ trải qua quá trình hồi tưởng, tái hiện, nhớ lại, nhận lại đối tượng mà họ đã tri giác, ghi nhớ trước đây khi đối tượng đó xuất hiện và nhận ra được đối tượng này. Hoạt động nhận dạng của người làm chứng là sự truy nguyên về người hoặc vật, góp phần vào việc xác định tính chất vụ án, tìm ra người thực hiện tội phạm, bị hại, vật chứng của vụ án hoặc tung tích nạn nhân.
Năm: Tham gia hoạt động nhận biết giọng nói
- Trong trường hợp cần thiết, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể cho người làm chứng nhận biết giọng nói. Khi tham gia hoạt động nhận biết giọng nói, người làm chứng sẽ trải qua quá trình hồi tưởng, tái hiện, nhớ lại giọng nói mà họ đã nghe thấy và khẳng định có phải là giọng nói mà khi nhận dạng họ được nghe lại hay không. Cũng giống như nhận dạng, kết quả hoạt động nhận biết giọng nói có sự tham gia của người làm chứng có vai trò quan trọng trong truy nguyên đối tượng thực hiện tội phạm hoặc bị hại, góp phần giải quyết vụ án khách quan.
Sáu: Tham gia phiên tòa xét xử
- Người làm chứng tham gia phiên tòa để làm sáng tỏ những tình tiết của vụ án. Căn cứ vào nguyên tắc xét xử trực tiếp và bằng lời nói, Tòa án phải xét xử khi có mặt người làm chứng và khi đã được triệu tập, người làm chứng phải có mặt tại phiên tòa, dù trước đó họ đã khai ở Cơ quan điều tra. Sự có mặt của người làm chứng bảo đảm cho việc xác minh trực tiếp, công khai chứng cứ. Trong thực tế, nhiều trường hợp Tòa án cần hỏi thêm người làm chứng về những tình tiết của vụ án; bị cáo, bị hại, người bào chữa,... cũng có thể phản đối lời khai của người làm chứng, nên người làm chứng phải có mặt tại phiên tòa để giải thích thêm về những lời khai của mình.
trên đây là nội dung pháp lý liên quan đến người làm chứng trong tố tụng hình sự gửi đến bạn đọc, huy vọng thông tin trên sẻ giúp cho bạn đọc hiểu rõ hơn về người làm chứng trong tố tụng hình sự. Mọi chi tiết thắc mắc bạn đọc có thể truy cập vào webside công ty để được hỗ trợ tư vấn tận tình.
Nội dung bài viết:
Bình luận