Có được yêu cầu đòi quyền thừa kế sau hơn 30 năm không?

Đòi quyền thừa kế sau hơn 30 năm là một chủ đề quan trọng trong lĩnh vực pháp luật đất đai. Trong bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu về các quy định, điều kiện cho việc đòi quyền thừa kế sau hơn 30 năm. Bạn sẽ được hướng dẫn chi tiết về vấn đề này trong bài viết dưới đây. 

Có được yêu cầu đòi quyền thừa kế sau hơn 30 năm không

Có được yêu cầu đòi quyền thừa kế sau hơn 30 năm không

Thời hiệu thừa kế là gì?

Thời hạn mà người thừa kế có thể yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản và 10 năm đối với động sản, tính từ thời điểm mở thừa kế. Sau khi hết thời hạn này, quyền sở hữu của di sản sẽ thuộc về người thừa kế đang quản lý nó. Trong trường hợp không có người thừa kế nào đang quản lý di sản, giải quyết di sản sẽ tuân theo các quy định sau đây:

  1. Di sản sẽ thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật Dân sự.

  2. Nếu không có người chiếm hữu theo quy định trên, di sản sẽ thuộc về Nhà nước.

Thời điểm mở thừa kế được xác định theo quy định tại Điều 611 của Bộ luật Dân sự năm 2015, nơi mà thời điểm này là lúc người sở hữu tài sản qua đời. Trong trường hợp Tòa án tuyên bố người đó đã chết, thì thời điểm mở thừa kế sẽ là ngày do Tòa án xác định. Tóm lại, Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định rõ phương án giải quyết di sản khi hết thời hiệu yêu cầu chia di sản, bao gồm: (1) di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý; (2) nếu không có người thừa kế quản lý, di sản sẽ thuộc quyền sở hữu của người chiếm hữu; (3) di sản thuộc về Nhà nước khi không có người thừa kế quản lý và không có người chiếm hữu.

Thời hiệu khởi kiện

Khi thực hiện quy định về thời hiệu khởi kiện, ngoài các quy định cứng về thời hiệu, quan trọng là phải chú ý đến những trường hợp mà thời gian không được tính vào thời hiệu khởi kiện hoặc cần bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện.

Thời hiệu khởi kiện

Theo quy định tại khoản 3 của Điều 150 trong Bộ luật Dân sự năm 2015, "Thời hiệu khởi kiện là khoảng thời gian mà người có quyền khởi kiện có thể yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; khi thời hạn này kết thúc, quyền khởi kiện sẽ mất đi".

Đối với thời hiệu khởi kiện trong vụ án liên quan đến thừa kế, thì quy định tại Điều 623 của Bộ luật Dân sự năm 2015 sẽ được áp dụng

Thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện

Khi xác định thời hiệu khởi kiện trong quan hệ dân sự, hệ thống pháp luật đều quy định những tình huống mà thời gian không được tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự hoặc thời hiệu yêu cầu giải quyết vấn đề dân sự. Điều này được cụ thể hóa tại Điều 156 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trong đó quy định những trường hợp sau đây:

  1. Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan: Đây là những tình huống khi có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà làm cho chủ thể có quyền khởi kiện hoặc yêu cầu không thể thực hiện khởi kiện, yêu cầu trong khoảng thời gian của thời hiệu khởi kiện.

  2. Chưa có người đại diện: Trong trường hợp người có quyền khởi kiện hoặc người có quyền yêu cầu là người chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và chưa có người đại diện thay thế.

  3. Chấm dứt người đại diện: Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự chưa có người đại diện khác thay thế trong các trường hợp sau đây:

    • a) Người đại diện chết nếu là cá nhân hoặc chấm dứt tồn tại nếu là pháp nhân.
    • b) Người đại diện vì lý do chính đáng mà không thể tiếp tục đại diện được.

Bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự

Trong một số trường hợp, mặc dù thời hiệu khởi kiện đã hết, pháp luật vẫn cho phép khởi động lại thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự. Điều này được quy định tại Điều 157 trong Bộ luật Dân sự năm 2015, xác định các trường hợp sau đây:

a) Bên có nghĩa vụ đã thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện; b) Bên có nghĩa vụ thừa nhận hoặc thực hiện xong một phần nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện; c) Các bên đã tự hòa giải với nhau.

Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự bắt đầu lại tính từ ngày tiếp theo sau ngày xảy ra sự kiện được nêu trên.

Thời hiệu chỉ được áp dụng theo yêu cầu của một bên hoặc các bên

Một quy định quan trọng về áp dụng thời hiệu được điều chỉnh tại Điều 184 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, kết hợp với khoản 2 của Điều 149 của Bộ luật Dân sự năm 2015, có nội dung như sau: "Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ, việc.

Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ".

Điều này có nghĩa rằng, nếu không có đương sự nào yêu cầu áp dụng thời hiệu khi thời hiệu khởi kiện đã hết, Tòa án vẫn sẽ giải quyết vụ án. Tuy nhiên, trong trường hợp có đương sự yêu cầu áp dụng thời hiệu, điều quan trọng là phải làm rõ liệu thời hiệu khởi kiện còn hiệu lực hay đã hết.

Có được yêu cầu đòi quyền thừa kế sau hơn 30 năm không?

Có được yêu cầu đòi quyền thừa kế sau hơn 30 năm không

Có được yêu cầu đòi quyền thừa kế sau hơn 30 năm không 

Các quy định về thừa kế được đề cập trong các văn bản pháp lý như Pháp lệnh Thừa kế năm 1990, cũng như các Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 1995, 2005 và 2015. Để trả lời câu hỏi có được quyền yêu cầu đòi quyền thừa kế sau hơn 30 năm không cần xác định thời hiệu thừa kế được quy định tùy thuộc vào thời điểm mở thừa kế, và dựa trên điều này, các quy định cụ thể được áp dụng trong các giai đoạn khác nhau của pháp lý.

Đối với những trường hợp mở thừa kế từ ngày 01/01/2017 (thời điểm Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành)

Theo quy định tại Điều 623 của Bộ luật Dân sự năm 2015, thì thời điểm bắt đầu tính thời hiệu trong quá trình thừa kế là từ thời điểm mở thừa kế. Điều 611 của Bộ luật Dân sự năm 2015 đã chỉ định rõ rằng thời điểm mở thừa kế là thời điểm mà người sở hữu tài sản qua đời. Nếu Tòa án công bố một người đã qua đời, thì thời điểm mở thừa kế sẽ được xác định là ngày mà Tòa án công bố.

Đối với những trường hợp mở thừa kế trước ngày 01/01/2017

  • Điều d khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015 về điều khoản chuyển tiếp quy định: "1. Đối với giao dịch dân sự được xác lập trước ngày Bộ luật này có hiệu lực (01/01/2017), thì việc áp dụng pháp luật được quy định như sau: d) Thời hiệu được áp dụng theo quy định của Bộ luật này".

  • Khoản 1 mục III Văn bản số 01/GĐ-TANDTC ngày 25/7/2016 của TAND Tối cao giải đáp một số vấn đề về hình sự, tố tụng hình sự, dân sự, tố tụng dân sự, có giải đáp: "Khoản 1 Điều 623 BLDS năm 2015 quy định thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản kể từ thời điểm mở thừa kế. Quy định này có áp dụng đối với trường hợp thời điểm mở thừa kế trước ngày 01-01-2017 (ngày BLDS năm 2015 bắt đầu có hiệu lực thi hành) hay không?

Theo điểm d khoản 1 Điều 688 BLDS năm 2015 quy định: đối với giao dịch dân sự được xác lập trước ngày BLDS năm 2015 có hiệu lực thì “Thời hiệu được áp dụng theo quy định của Bộ luật này”. Như vậy, kể từ ngày BLDS năm 2015 có hiệu lực thi hành, Tòa án áp dụng quy định tại Điều 623 BLDS năm 2015 để xác định thời hiệu đối với trường hợp thời điểm mở thừa kế trước ngày 01-01-2017. Tuy nhiên, cần lưu ý quy định tại khoản 2 Điều 688 BLDS năm 2015: “Không áp dụng Bộ luật này để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với vụ việc mà Tòa án đã giải quyết theo quy định của pháp luật về dân sự trước ngày Bộ luật này có hiệu lực”.

  • Phần I văn bản số 01/GĐ-TANDTC ngày 05/01/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ, hướng dẫn về dân sự: “Trường hợp người để lại di sản thừa kế chết trước năm 1987 mà hiện nay Tòa án mới thụ lý, giải quyết tranh chấp thì thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế là bất động sản được xác định như thế nào?

Kể từ ngày Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015, khoản 4 Điều 4 Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐTP ngày 30-6-2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của Quốc hội về việc thi hành Luật Tố tụng hành chính thì từ ngày 01-01-2017, Tòa án áp dụng khoản 1 Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 về thời hiệu thừa kế để thụ lý, giải quyết vụ án dân sự "Tranh chấp về thừa kế tài sản”. Theo đó, thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản kể từ thời điểm mở thừa kế.

Đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 10-9-1990 thì thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế là bất động sản được thực hiện theo quy định tại Điều 36 của Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế, cụ thể là: thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày 10-9-1990.

Khi xác định thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế mà thời điểm mở thừa kế trước ngày 01-7-1991 và di sản là nhà ở thì thời gian từ ngày 01-7-1996 đến ngày 01-01-1999 không tính vào thời hiệu khởi kiện đối với trường hợp thừa kế không có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia[1]; thời gian từ ngày 01-7-1996 đến ngày 01-9-2006 không tính vào thời hiệu khởi kiện đối với trường hợp thừa kế có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia”.

Từ các căn cứ trên, việc xác định thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế là bất động sản đối với những trường hợp có thời điểm mở thừa kế trước ngày 01/01/2017 như sau:

Thời điểm mở thừa kế

 

 

Nội dung

Trước ngày 10/9/1990

Trước ngày 01/7/1991-

(di sản là nhà ở không có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia)

Trước ngày 01/7/1991-

(di sản là nhà ở có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia)

Từ ngày 10/9/1990 đến trước ngày 01/01/2017

Xác định thời điểm bắt đầu thời hiệu/không tính thời hiệu

Thời hiệu từ ngày 10/9/1990

Từ ngày 01-7-1996 đến ngày 01-01-1999 không tính vào thời hiệu khởi kiện

Từ ngày 01-7-1996 đến ngày 01-9-2006 không tính vào thời hiệu khởi kiện

Thời hiệu kể từ thời điểm mở thừa kế

Căn cứ

Điều 36 Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 và Nghị quyết số 02/HĐTP

Khoản 2 Điều 17 Nghị quyết 58/1998/NQ-UBTVQH10

Khoản 2 Điều 39 Nghị quyết 1037/2006/NQ-UBTVQH11

Điểm d khoản 1 Điều 688 BLDS năm 2015

Ghi chú

Mặc dù Điều 36 Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 quy định  đối với các việc thừa kế đã mở trước ngày ban hành Pháp lệnh này (30/8/1990) thì thời hạn được tính từ ngày công bố Pháp lệnh này (10/9/1990). Tuy nhiên, Nghị quyết số 02/HĐTP hướng dẫn “đối với những việc thừa kế đã mở trước ngày 10-9-1990, thì thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày 10-9-1990”.

Ngoài trường hợp không tính vào thời hiệu khởi kiện về thừa kế đối với di sản thừa kế là nhà ở trước ngày 01/7/1991; cần lưu ý những trường hợp mà thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện được quy định tại Điều 156 Bộ luật Dân sự năm 2015 và bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện được quy định tại Điều 157 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Trường hợp nào di sản thừa kế sẽ bị hạn chế phân chia?

Có những trường hợp di sản thừa kế sẽ gặp hạn chế trong quá trình phân chia, chi tiết như sau:

  1. Di sản thừa kế sẽ bị hạn chế phân chia khi có sự ảnh hưởng từ ý chí của người lập di chúc hoặc thông qua thỏa thuận của tất cả những người thừa kế. Trong trường hợp này, di sản chỉ được phân chia sau một khoảng thời gian nhất định, và chỉ khi đã hết thời hạn đó, di sản mới có thể được phân chia.

  2. Hoặc nếu việc chia di sản có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình, thì bên còn sống có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần di sản mà những người thừa kế sẽ được hưởng, nhưng chưa được phân chia, trong một khoảng thời gian nhất định.

  3. Thời hạn này không vượt quá 03 năm, tính từ thời điểm mở thừa kế. Sau khi hết thời hạn 03 năm, nếu bên còn sống có thể chứng minh rằng việc chia di sản vẫn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống gia đình, họ có quyền yêu cầu Tòa án gia hạn một lần, nhưng không thể vượt quá thêm 03 năm.

(Quy định tại Điều 661 Bộ luật Dân sự 2015 là căn cứ cho các điều khoản trên.)

Trường hợp nào thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế?

Trường hợp nào thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế

Trường hợp nào thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế

Dựa vào quy định tại tiểu mục 2.4, mục 2 phần I Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP, các điều sau được xác định:

  1. Không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế trong các trường hợp sau đây:

    a. Trong thời hạn mười năm, tính từ thời điểm mở thừa kế, nếu các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản xác nhận là đồng thừa kế, hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đồng ý thừa nhận di sản mà người chết để lại chưa chia, thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế.

    b. Khi có tranh chấp và yêu cầu Tòa án giải quyết, không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế. Thay vào đó, áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết, và cần phân biệt như sau:

    • Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thỏa thuận về việc chia tài sản, thì chia tài sản theo di chúc khi có nhu cầu.

    • Trong trường hợp không có di chúc, nhưng các đồng thừa kế đã thỏa thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì chia tài sản chung theo thỏa thuận của họ.

    • Nếu không có di chúc và các đồng thừa kế không thỏa thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì chia tài sản chung theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.

  2. Trong trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý hoặc sử dụng, mà di sản đó đang bị người khác chiếm hữu một cách bất hợp pháp, hoặc được thuê, mượn, quản lý theo Ủy quyền... thì các thừa kế có quyền khởi kiện người đó để đòi lại di sản.

Câu hỏi thường gặp

Câu hỏi 1: Thời hiệu thừa kế là gì?

Trả lời 1: Thời hiệu thừa kế là khoảng thời gian mà người thừa kế có quyền yêu cầu chia di sản, tính từ thời điểm mở thừa kế. Sau khi hết thời hạn này, quyền sở hữu của di sản sẽ thuộc về người thừa kế đang quản lý nó.

Câu hỏi 2: Thời hiệu khởi kiện là gì và khi nào được áp dụng?

Trả lời 2: Thời hiệu khởi kiện là khoảng thời gian mà người có quyền khởi kiện có thể yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự. Nó có thể không được tính vào trong những trường hợp nhất định, như khi có sự kiện bất khả kháng hoặc khi người có quyền khởi kiện chưa có người đại diện.

Câu hỏi 3: Thế nào là thời hiệu khởi kiện trong vụ án liên quan đến thừa kế?

Trả lời 3: Đối với vụ án liên quan đến thừa kế, quy định tại Điều 623 của Bộ luật Dân sự năm 2015 sẽ được áp dụng để xác định thời hiệu khởi kiện.

Câu hỏi 4: Có được yêu cầu đòi quyền thừa kế sau hơn 30 năm không?

Trả lời 4: Tùy thuộc vào thời điểm mở thừa kế và quy định của Bộ luật Dân sự để xác định bạn còn thời hiệu khởi kiện hay không. Đối với những trường hợp mở thừa kế trước ngày 01/01/2017, thời hiệu yêu cầu chia di sản là 30 năm, và quy định này được áp dụng theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    Họ và tên không được để trống

    Số điện thoại không được để trống

    Số điện thoại không đúng định dạng

    Vấn đề cần tư vấn không được để trống

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo