Con người luôn là trung tâm, là mục tiêu hướng đến đầu tiên của quá trình phát triển, do đó, song song với việc phát triển về mọi mặt của xã hội thì vấn đề quyền con người cũng ngày càng được tôn trọng và bảo vệ. Theo đó, Hiến pháp đã ghi nhận về quyền con người bao gồm: quyền về kinh tế, quyền về chính trị, quyền về dân sự,… Một trong những bộ phận quan trọng của quyền dân sự đã được cụ thể hóa tại Bộ luật Dân sự (BLDS) đó là quyền nhân thân của cá nhân, trong đó có quyền cá nhân đối với hình ảnh…
Quyền của cá nhân đối với hình ảnh theo quy định của BLDS 2015
Điều 32 BLDS 2015 quy định quy định về quyền của cá nhân đối với hình ảnh như sau:
1.Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình.
Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý.
Việc sử dụng hình ảnh của người khác vì mục đích thương mại thì phải trả thù lao cho người có hình ảnh, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
2.Việc sử dụng hình ảnh trong trường hợp sau đây không cần có sự đồng ý của người có hình ảnh hoặc người đại diện theo pháp luật của họ:
- a) Hình ảnh được sử dụng vì lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng;
- b) Hình ảnh được sử dụng từ các hoạt động công cộng, bao gồm hội nghị, hội thảo, hoạt động thi đấu thể thao, biểu diễn nghệ thuật và hoạt động công cộng khác mà không làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh.
3.Việc sử dụng hình ảnh mà vi phạm quy định tại Điều này thì người có hình ảnh có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định buộc người vi phạm, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải thu hồi, tiêu hủy, chấm dứt việc sử dụng hình ảnh, bồi thường thiệt hại và áp dụng các biện pháp xử lý khác theo quy định của pháp luật”.
Qua nội dung của Điều luật này và các Điều luật có liên quan thì có thể hiểu quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh là quyền nhân thân gắn liền với cá nhân được pháp luật quy định và bảo vệ, liên quan đến việc sử dụng và cho phép sử dụng hình ảnh của chính cá nhân đó.
Hình ảnh là sự phản ánh bên ngoài hình thể của con người, hình ảnh thu được nhờ khí cụ quang học như máy ảnh và con người nhận biết được nó bằng thị giác. Quyền đối với hình ảnh là quyền nhân thân của cá nhân; cá nhân hoàn toàn được phép định đoạt những gì mình muốn với hình ảnh của mình, không một ai được quyền ngăn cản hay được phép xâm phạm. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý, cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội. Quyền này được Hiến định thể hiện thông qua các quyền được tôn trọng, quyền được sử dụng, quyền được bảo vệ khi bị xâm phạm: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình. Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn.
Khi chủ thể có hình ảnh bị xâm phạm trên mạng xã hội thì có quyền tự mình hoặc được quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người có hành vi xâm phạm phải chấm dứt hành vi xâm phạm. Trong trường hợp người thực hiện hành vi xâm phạm không có những biện pháp chấm dứt ngay hành vi của mình và ngăn ngừa hậu quả xảy ra, chủ thể có quyền đối với hình ảnh bị xâm phạm được áp dụng các biện pháp khác để bảo vệ quyền hình ảnh của mình.
Khi nghiên cứu quy định tại Điều 32 BLDS 2015 có thể thấy rằng khi sử dụng hình ảnh của một ai đó, yêu cầu phải có được sự chấp thuận của người có hình ảnh được sử dụng và phải trả thù lao nếu có phát sinh lợi nhuận. Việc sử dụng hình ảnh trong trường hợp không cần có sự đồng ý của người có hình ảnh hoặc người đại diện theo pháp luật của họ chỉ áp dụng với trường hợp vì lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích cộng đồng hoặc hoạt động công cộng khác… mà không làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh. Ngoài ra, luật cho phép người bị xâm phạm yêu cầu Tòa án ra quyết định buộc người vi phạm, tổ chức, cá nhân có liên quan phải thu hồi, tiêu hủy, chấm dứt việc sử dụng hình ảnh và bồi thường thiệt hại, kể cả với trường hợp sử dụng trái phép cho mục đích phi lợi nhuận. Đây là những quy định mới nổi bật so với BLDS 2005, giúp cá nhân tăng tính bảo vệ quyền lợi đối với hình ảnh của mình.
Theo quy định trên, Quyền của cá nhân đối với hình ảnh của mình là quyền nhân thân được pháp luật bảo vệ. Cá nhân là người có quyền đối với hình ảnh của mình, vì vậy việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý.
Trong cuộc sống hiện nay, việc sử dụng hình ảnh của người khác với mục đích quảng cáo, phát sinh lợi nhuận càng trở nên phổ biến. Theo quy định trên, việc sử dụng hình ảnh của người khác vì mục đích thương mại thì phải trả thù lao cho người có hình ảnh, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Bên cạnh đó, có một số trường hợp việc sử dụng hình ảnh không cần có sự đồng ý của người có hình ảnh hoặc người đại diện theo pháp luật của họ, bao gồm:
Hình ảnh được sử dụng vì lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng;
Hình ảnh được sử dụng từ các hoạt động công cộng, bao gồm hội nghị, hội thảo, hoạt động thi đấu thể thao, biểu diễn nghệ thuật và hoạt động công cộng khác mà không làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh.
Việc sử dụng hình ảnh của người khác khi không được cá nhân đó đồng ý, sử dụng với mục đích thương mại nhưng không trả thù lao, Tòa án ra quyết định buộc người vi phạm, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải thu hồi, tiêu hủy, chấm dứt việc sử dụng hình ảnh, bồi thường thiệt hại và áp dụng các biện pháp xử lý khác theo quy định của pháp luật trong trường hợp người bị sử dụng hình ảnh có yêu cầu.
Trên đây là toàn bộ nội dung giới thiệu của chúng tôi về quy định tại Điều 32 Bộ luật Dân sự năm 2015 gửi đến quý bạn đọc để tham khảo. Trong quá trình tìm hiểu nếu như quý bạn đọc có thắc mắc cần giải đáp, vui lòng liên hệ với chúng tôi để được trao đổi cụ thể.
Lưu ý: Nội dung tư vấn trên đây chỉ mang tính tham khảo, tùy từng thời điểm và đối tượng khác nhau mà nội dung tư vấn trên có thể sẽ không còn phù hợp.
Nội dung bài viết:
Bình luận