1. Khái niệm hoạt động đấu giá tài sản
Đấu giá hàng hóa là hoạt động kinh doanh, theo đó người bán hàng tự mình hoặc thuê người điều hành cuộc đấu giá thực hiện việc bán hàng hóa công khai để chọn người mua hàng hóa trả giá cao nhất. Việc bán đấu giá hàng hóa được điều chỉnh bởi Điều 185 Luật Thương mại 2005 như sau:
Điều 185. Đấu giá hàng hóa
- Đấu giá hàng hóa là hoạt động kinh doanh, theo đó người bán hàng tự mình hoặc thuê người điều hành cuộc đấu giá thực hiện việc bán hàng hóa công khai để chọn người mua hàng trả giá cao nhất.
- Việc bán đấu giá hàng hóa được thực hiện theo một trong hai phương thức sau:
a) Phương thức đấu giá là phương thức đấu giá mà người nào trả giá cao hơn giá khởi điểm là người có quyền mua hàng hoá;
b) Phương thức đấu giá là phương thức đấu giá, trong đó người đầu tiên chấp nhận ngay giá khởi điểm hoặc giá dưới giá khởi điểm là người có quyền mua hàng hoá.
2. Đặc điểm của hoạt động đấu giá tài sản
Hoạt động đấu giá hàng hóa có những đặc điểm khác biệt với các hoạt động kinh doanh khác như sau:
Đầu tiên là hoạt động bán hàng đặc biệt. Trong đó người bán hàng tự mình hoặc thuê người tổ chức đấu giá (thương nhân kinh doanh dịch vụ đấu giá) thực hiện việc bán hàng hóa công khai tại địa điểm và thời gian đã được thông báo trước để người mua trả giá. Quyền mua hàng sẽ thuộc về người trả giá cao nhất.
Thứ hai, đối tượng đấu giá là hàng hóa được phép lưu thông trên thị trường. Nhưng thông thường người ta chỉ tổ chức đấu giá những hàng hóa có tính chất và giá trị sử dụng cụ thể. Đây là những hàng hóa khó xác định giá trị thực, người mua có thể trả giá cao hơn hoặc thấp hơn giá khởi điểm theo phương thức đấu giá trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh.
Thứ ba, hình thức của quan hệ đấu giá có thể tồn tại như:
– Hợp đồng dịch vụ đấu giá (là hợp đồng ủy quyền được xác lập giữa bên bán và bên được cấp phép dịch vụ đấu giá có ghi quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên)
- Văn bản đấu giá hàng hóa (hợp đồng mua bán hàng hóa được ký kết giữa bên bán, bên mua và tổ chức đấu giá).
3. Đối tượng tham gia hoạt động đấu giá
Căn cứ quy định tại Điều 186 và Điều 187 Luật Thương mại 2005, chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh đấu giá hàng hóa được xác định gồm:
- Người tổ chức đấu giá là thương nhân có đăng ký kinh doanh dịch vụ đấu giá hoặc là người bán hàng của chính mình trong trường hợp người bán hàng tự tổ chức đấu giá.
- Người bán là chủ sở hữu hàng hóa, người được chủ hàng hóa ủy quyền bán hoặc người có quyền bán hàng hóa của người khác theo quy định của pháp luật.
Người tham gia đấu giá hàng hóa là tổ chức, cá nhân đăng ký tham gia đấu giá.
Người điều hành đấu giá là Người tổ chức đấu giá hoặc người được Đấu giá viên ủy quyền để điều hành Đấu giá.
4. Trình tự, thủ tục đấu giá hàng hóa
Trình tự và điều kiện đấu giá như sau:
Bước 1. Tham gia thỏa thuận dịch vụ máy chủ đấu giá
Pháp luật quy định người bán hàng có thể tự tổ chức đấu giá hoặc thuê người tổ chức đấu giá. Trong trường hợp hàng hóa được bán đấu giá một mình, việc ký kết hợp đồng đấu giá không nên được áp đặt đối với người bán. Nhưng trong trường hợp bên bán sử dụng đơn vị tổ chức đấu giá thì cần phải lập hợp đồng dịch vụ tổ chức đấu giá để thỏa thuận các nội dung đấu giá hàng hóa như: giá trị hàng hóa, thời điểm đấu giá, quyền lợi nghĩa vụ của các bên, khoản thù lao nhận được sau khi thực hiện việc bán đấu giá...
bước thứ 2. Xác định giá khởi điểm
Theo quy định tại Điều 194 Bộ luật Thương mại 2005, giá khởi điểm được xác định như sau:
- Người bán phải xác định giá khởi điểm. Trường hợp người tổ chức đấu giá được ủy quyền xác định giá khởi điểm thì phải thông báo cho người bán trước khi công bố cuộc đấu giá.
- Trường hợp hàng hóa đấu giá là đối tượng cầm cố, thế chấp thì bên nhận cầm cố, thế chấp phải thỏa thuận với bên nhận cầm cố, bên nhận thế chấp để xác định giá khởi điểm.
- Trường hợp trong hợp đồng cầm cố, thế chấp có thỏa thuận về việc bán đấu giá nhưng bên thế chấp, bên thế chấp vắng mặt không có lý do chính đáng hoặc từ chối giao kết hợp đồng dịch vụ tổ chức bán đấu giá hàng hóa thì giá khởi điểm được xác định bởi bên thế chấp hoặc bên nhận thế chấp.
Bước 3. Chuẩn bị bán đấu giá hàng hóa
Trường hợp bán đấu giá không qua trung gian thì việc chuẩn bị bán đấu giá hàng hóa do người bán hàng hóa thực hiện hoặc trường hợp bán đấu giá hàng hóa thông qua trung gia thì do người tổ chức đấu giá thực hiện sau khi hợp đồng dịch vụ tổ chức đấu giá hàng hóa đã được ký kết và giá khởi điểm đã được các bên xác lập. Công tác chuẩn bị sẽ được tiến hành theo trình tự niêm yết, thông báo công khai việc bán đấu giá sau đó tiến hành đăng ký mua hàng hóa bán đấu giá và đặt cọc và cuối cùng là trưng bày, xem hàng hóa bán đấu giá:
– Thời hạn thông báo và niêm yết đấu giá hàng hoá:
Chậm nhất là bảy ngày làm việc trước khi tiến hành bán đấu giá hàng hoá, người tổ chức đấu giá phải niêm yết việc bán đấu giá tại nơi tổ chức đấu giá, nơi trưng bày hàng hoá và nơi đặt trụ sở của người tổ chức đấu giá theo quy định tại Điều 197 của Luật thương mại.
Trường hợp người tổ chức đấu giá hàng hóa là người bán hàng thì thời hạn niêm yết đấu giá hàng hóa do người bán hàng tự quyết định.
– Thông báo cho người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến hàng hóa là đối tượng cầm cố, thế chấp:
Trường hợp hàng hoá là đối tượng cầm cố, thế chấp, thì đồng thời với việc niêm yết đấu giá hàng hoá, người tổ chức đấu giá phải thông báo cho những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong thời hạn chậm nhất là bảy ngày làm việc trước khi tiến hành bán đấu giá hàng hóa đó theo quy định tại Điều 197 của Luật thương mại.
– Đăng ký tham gia đấu giá:
Người tổ chức đấu giá có thể yêu cầu người muốn tham gia đấu giá phải đăng ký tham gia trước khi bán đấu giá. Người tổ chức đấu giá có thể yêu cầu người tham gia đấu giá nộp khoản tiền đặt trước nhưng không quá 2% giá khởi điểm của hàng hoá đấu giá.
Trường hợp người tham gia đấu giá mua được hàng hóa đấu giá thì khoản tiền đặt trước được trừ vào giá mua hàng.
Trong trường hợp người đăng ký đấu giá đã nộp tiền đặt trước nhưng không tham dự cuộc đấu giá thì người tổ chức đấu giá có quyền thu khoản tiền đặt trước đó.
- Tiền đặt trước khi tham gia đấu giá:
Khoản 1 Điều 29 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP về đấu giá quy định:
“Người tham gia đấu giá tài sản phải nộp phí tham gia đấu giá, tiền đặt trước, phí tham gia đấu giá thực hiện theo quy định của pháp luật về phí và lệ phí. Mức tiền đặt trước do tổ chức đấu giá tài sản và người có tài sản đấu giá thỏa thuận nhưng tối thiểu là 1% và không quá 15% giá khởi điểm của tài sản đấu giá. Khoản tiền đặt trước được nộp cho tổ chức đấu giá bất động sản.
- Trưng bày, trực quan hàng hóa đấu giá:
Hàng hoá, mẫu hàng hoá, chứng từ hàng hoá và các thông tin cần thiết khác về hàng hoá phải được trưng bày tại địa điểm đã quy định kể từ thời điểm ký gửi.
Bước 4. Tổ chức bán đấu giá tài sản
Việc bán đấu giá có thể tiến hành tại trụ sở của tổ chức bán đấu giá hoặc tại nơi có tài sản bán đấu giá và phải được công khai. Địa điểm và thời gian bán đấu giá phải được công khai. Xuất phát từ tính chất cạnh tranh trong đấu giá, nhất là cạnh tranh về giá hàng hóa, cuộc bán đấu giá chỉ được tiến hành khi đảm bảo số lượng tối thiểu người tham gia trả giá. Cuộc đấu giá hàng hóa được tiến hành theo quy định tại Điều 201 Luật Thương mại năm 2005:
– Người điều hành đấu giá điểm danh người đã đăng ký tham gia đấu giá hàng hoá;
– Người điều hành đấu giá giới thiệu từng hàng hoá bán đấu giá, nhắc lại giá khởi điểm, trả lời các câu hỏi của người tham gia đấu giá và yêu cầu người tham gia đấu giá trả giá;
– Đối với phương thức trả giá lên, người điều hành đấu giá phải nhắc lại một cách rõ ràng, chính xác giá đã trả sau cùng cao hơn giá người trước đã trả ít nhất là ba lần, mỗi lần cách nhau ít nhất ba mươi giây. Người điều hành đấu giá chỉ được công bố người mua hàng hoá bán đấu giá, nếu sau ba lần nhắc lại giá người đó đã trả mà không có người nào trả giá cao hơn;
– Đối với phương thức đặt giá xuống, người điều hành đấu giá phải nhắc lại một cách rõ ràng, chính xác từng mức giá được hạ xuống thấp hơn giá khởi điểm ít nhất là ba lần, mỗi lần cách nhau ít nhất ba mươi giây. Người điều hành đấu giá phải công bố ngay người đầu tiên chấp nhận mức giá khởi điểm hoặc mức giá hạ thấp hơn mức giá khởi điểm là người có quyền mua hàng hóa đấu giá;
– Trường hợp có nhiều người đồng thời trả mức giá cuối cùng đối với phương thức trả giá lên hoặc mức giá đầu tiên đối với phương thức đặt giá xuống, người điều hành đấu giá phải tổ chức rút thăm giữa những người đó và công bố người rút trúng thăm được mua là người mua hàng hoá bán đấu giá;
– Người điều hành đấu giá phải lập văn bản bán đấu giá hàng hoá ngay tại cuộc đấu giá, kể cả trong trường hợp đấu giá không thành. Văn bản bán đấu giá phải ghi rõ kết quả đấu giá, có chữ ký của người điều hành đấu giá, người mua hàng và hai người chứng kiến trong số những người tham gia đấu giá; đối với hàng hoá bán đấu giá phải có công chứng nhà nước theo quy định của pháp luật thì văn bản bán đấu giá cũng phải được công chứng. Bước 5. Hoàn thiện hồ sơ đấu giá hàng hóa
Văn bản đấu giá hàng hoá là cơ sở pháp lý xác nhận việc mua bán, chuyển quyền sở hữu hàng hoá đấu giá. Văn bản đấu giá hàng hoá phải được lập tại cuộc đấu giá, kể cả trường hợp cuộc đấu giá không thành. Hồ sơ đấu giá hàng hóa phải bao gồm đầy đủ các nội dung quy định tại Mục 203 Luật Thương mại 2005:
“1. Văn bản xét xử hàng hóa là chứng từ chứng minh việc mua bán hàng hóa. Văn bản đấu giá hàng hóa phải có các nội dung sau:
- a) Tên, địa chỉ của người tổ chức đấu giá;
- b) Tên, địa chỉ của người điều hành đấu giá;
- c) Tên, địa chỉ của người bán;
- d) Tên, địa chỉ của người mua;
đ) Thời gian, địa điểm cuộc bán đấu giá;
- e) Hàng hóa bán đấu giá;
- g) Giá bán;
- h) Tên, địa chỉ của hai người làm chứng.
- Hồ sơ mời thầu hàng hóa phải được gửi cho người bán, người mua và các bên có liên quan.
- Trường hợp đấu giá không thành thì văn bản đấu giá hàng hóa phải thể hiện rõ kết quả đấu giá không thành và phải có các nội dung quy định tại các điểm a, b, c, đ, e và h.
Căn cứ vào văn bản bán đấu giá hàng hóa và các giấy tờ hợp lệ khác, cơ quan nhà nước hữu quan có trách nhiệm đăng ký quyền sở hữu hàng hóa cho người mua theo quy định của pháp luật.
5. Quy định về hợp đồng đấu giá hàng hóa
Thứ nhất, thời điểm thực tế của hợp đồng mua bán đấu giá bất động sản rất khó xác định.
Đối với hợp đồng bán đấu giá tài sản thương mại thì kể từ thời điểm công bố người tham gia đấu giá là người mua được tài sản là thời điểm giao kết hợp đồng và kể từ thời điểm giao kết thì việc bán đấu giá hợp đồng có hiệu lực. Như vậy, có thể hiểu thời điểm người điều hành đấu giá công bố người mua được hàng hóa đấu giá đối với phương thức trả giá lên hoặc người đầu tiên chấp nhận giá đối với phương thức trả giá xuống là thời điểm ký kết các bên mua bán. hợp đồng. của hàng hóa bán đấu giá. Kể từ thời điểm này, các bên giao kết nghĩa vụ với hợp đồng hay nói cách khác hợp đồng mua bán hàng hóa đấu giá có hiệu lực. Nhưng đối với hàng hóa là vật gắn liền với đất thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa đấu giá sẽ không được xác định như trên mà phải căn cứ vào quy định của pháp luật có liên quan.
Theo quy định của Luật Nhà ở 2014, đối với hợp đồng mua bán, đấu giá nhà ở thương mại thì hợp đồng đó phải được công chứng, chứng thực và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm chứng thực hợp đồng. Khoản 1 Mục 5 Luật Công chứng 2014 quy định: “Văn bản công chứng có hiệu lực kể từ ngày được công chứng viên ký, đóng dấu”. Như vậy có thể thấy, đối với hàng hóa mà pháp luật quy định phải công chứng hợp đồng mua bán thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng sẽ là thời điểm hợp đồng được công chứng. Giá trị pháp lý của hợp đồng bán đấu giá tài sản đối với bất động sản không phải là đất tại thời điểm người mua đấu giá thành không được công nhận, nhưng cho đến khi hợp đồng trên được công chứng hợp pháp thì hợp đồng mới chính thức có hiệu lực, các quyền và nghĩa vụ của các bên của hợp đồng hiện đã được thiết lập. Nếu trong thời gian chờ công chứng hợp đồng mua bán hàng hóa đấu giá chính thức có hiệu lực, các bên xảy ra tranh chấp thì áp dụng cơ chế nào để giải quyết? Hiện nay, các bên chưa giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa đấu giá mà mới chỉ ở quan hệ giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa đấu giá. Việc giải quyết tranh chấp cũng như quyền và lợi ích của các chủ thể không được đảm bảo. Đây là kẽ hở của pháp luật đấu giá tài sản đối với tài sản gắn liền với đất. Cần khắc phục để đảm bảo hiệu quả của hoạt động đấu giá hàng hóa cũng như tạo hành lang pháp lý vững chắc bảo đảm quyền lợi của các bên tham gia.
Thứ hai, pháp luật không quy định trách nhiệm liên đới và trách nhiệm riêng của người kinh doanh đấu giá khi người được ủy quyền bán hàng hoặc người bán hàng vi phạm. Nhiều chủ thể có thể trở thành người bán đấu giá hàng hóa (có thể là chủ sở hữu hàng hóa, người được chủ hàng ủy quyền, người có quyền bán theo quy định của pháp luật) nhưng khi xác định trách nhiệm và xử phạt người bán hàng hóa, pháp luật hiện hành vẫn chỉ tập trung vào lỗi của người bán hàng mà chưa có trách nhiệm liên đới giữa người bán hàng và người tổ chức đấu giá.
Dẫn chiếu Luật đấu giá của Trung Quốc, Chương V quy định trách nhiệm pháp lý như sau: “Nếu bên bán vi phạm quy định tại Điều 6 của luật này về việc cho phép bán đấu giá hàng hóa hoặc quyền tài sản không thuộc quyền sở hữu của mình hoặc không được chuyển nhượng theo quy định của pháp luật thì họ có thể phải chịu trách nhiệm về những trách nhiệm phát sinh từ đó theo quy định của pháp luật. Nếu người tổ chức đấu giá biết rằng người bán không phải là chủ sở hữu của món hàng hoặc không được phép bán, hoặc người bán không chịu trách nhiệm về hàng hóa hoặc quyền tài sản thì anh cũng có thể bị liên đới. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, khi hàng hóa đấu giá có vi phạm thì chỉ bên bán chịu trách nhiệm, thiết nghĩ quy định này không phù hợp khi bản thân các công ty đấu giá có thể biết lỗi của hàng hóa trong , người bán hàng hóa nhưng vẫn dàn xếp việc bán đấu giá và không thông báo trước cho người mua.
Nội dung bài viết:
Bình luận