Tâm lý học tư pháp là một ngành khoa học ứng dụng, chuyên nghiên cứu các quy luật tâm lý biểu hiện trong các hoạt động tư pháp như điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và giáo dục, cải tạo phạm nhân. Ngành học này giúp giải thích những hiện tượng tâm lý của con người liên quan đến hoạt động tư pháp, từ đó hỗ trợ các cơ quan chức năng thực thi công việc hiệu quả và chính xác hơn.

Câu hỏi ôn tập môn Tâm lý học tư pháp (Có đáp án)
1. Trình bày đặc điểm hoạt động nhận thức, thiết kế, giáo dục của hoạt động cải tạo. Theo anh chị, hoạt động nào có vai trò quan trọng nhất trong giai đoạn cải tạo? Vì sao?
a. Đặc điểm của hoạt động nhận thức trong quá trình cải tạo:
– Nhận thức nhằm làm sáng tỏ những sai sót về nhân cách dẫn đến phạm tội, phục vụ cho hoạt động cải tạo, giáo dục người phạm tội.
– Nhận thức thông qua hồ sơ của phạm nhân và sự tiếp xúc trực tiếp với con người của phạm nhân khi nhập trại.
– Người quản giáo phải nhận thức, nghiên cứu tất cả các đặc điểm, nhu cầu, hứng thú, các thuộc tính tâm sinh lý của phạm nhân để áp dụng các hình thức và nội dung cải tạo giáo dục phù hợp.
– Người quản giáo phải nghiên cứu các đặc điểm của phạm nhân một cách liên tục trong suốt quá trình cải tạo, đồng thời ghi nhận được sự chuyển biến của những đặc điểm này để đề ra phương án xây dựng kế hoạch cải tạo hợp lý.
b. Đặc điểm của hoạt động thiết kế trong quá trình cải tạo:
– Do ngươi quản giáo trực tiếp thực hiện trên cơ sở nghiên cứu các điều kiện cải tạo và đặc điểm nhân thân của từng phạm nhân.
– Hoạt động thiết kế mang tính tập thể: kế hoạch cải tạo, giáo dục phạm nhân là kết quả của sự thảo luận, thống nhất của tập thể quản giáo cho tập thể phạm nhân trong trại. Chính yếu tố tập thể của hoạt động thiết kế mà vai trò của tập thể trong hoạt động cải tạo được đề cao, rèn luyện tích cực, sự tự ý thức cho phạm nhân, đây là phương tiện giáo dục quan trọng.
– Phương tiện để lập KH và ra các quyết định mang tính thiết kế của cán bộ qủan giáo là nhật ký, phiếu ghi chép, đánh giá về từng phạm nhân.
c. Đặc điểm của hoạt động giáo dục trong quá trình cải tạo:
– Chủ thể quan trọng nhất là cán bộ quản giáo, hoạt động giáo dục hướng đến đối tượng đặc thù là người phạm tội.
– Nội dung giáo dục sâu rộng, toàn diện, mang tính hệ thống, bài bản nhằm thay đổi cách nhìn nhận, quan điểm, lập trường, hình thành một số kỷ năng, kỹ xảo, nghề nghiệp mưu sinh cho người phạm tội. Hoạt động giáo dục trong quá trình cải tạo có thể coi là hoạt động quan trọng nhất tác động đến người phạm tội, nó là mục đích cuối cùng của hoạt động tố tụng.
– Mang tính cưỡng chế, không mang tính công khai như trong giai đoạn xét xử. Trong hoạt động này luôn tồn tại mối quan hệ bất bình đẳng giữa chủ thể và đối tượng giáo dục đồng thời thể hiện sâu sắc ý chí của chủ thể giáo dục.
– Phương tiện giáo dục: mang tính đa dạng, phong phú (thông qua ngôn ngữ, phi ngôn ngữ, tài liệu, phim ảnh, con người thực tế, thông qua các hoạt động sản xuất, lao động, học tập, giải trí…)
– Thời gian tác động: mang tính ổn định, lâu dài.
=> Hoạt động có vai trò quan trọng nhất là hoạt động giáo dục vì:
– Giáo dục là để hình thành nhận thức tích cực và giáo dục kỹ năng, kỹ xảo trong thói quen lao động, trong nghề nghiệp
– Giáo dục để biến 1 người khiếm khuyết trở thành 1 người hoàn thiện nhờ tác dụng giáo dục có hệ thống.
2. Trình bày sự khác nhau về hoạt động nhận thức giữa các giai đoạn điều tra, xét xử và cải tạo?
Hoạt động nhận thức của giai đoạn điều tra và giai đoạn xét xử đã có trong tài liệu.
Hoạt động nhận thức của giai đoạn cải tạo:
* Chủ thể nhận thức: Người quản giáo
* Mục đích: giúp phạm nhân có tâm lý ổn định, hướng thiện và cải tạo tốt hơn, đồng thời trang bị kiến thức nhất định để phạm nhân dễ tái hòa nhập cộng đồng sau khi ra trại.
* Đặc điểm:
– Nhận thức nhằm làm sáng tỏ những sai sót về nhân cách dẫn đến phạm tội, phục vụ cho hoạt động cải tạo, giáo dục người phạm tội.
– Nhận thức thông qua hồ sơ của phạm nhân và sự tiếp xúc trực tiếp với con người của phạm nhân khi nhập trại.
– Người quản giáo phải nhận thức, nghiên cứu tất cả các đặc điểm, nhu cầu, hứng thú, các thuộc tính tâm sinh lý của phạm nhân để áp dụng các hình thức và nội dung cải tạo giáo dục phù hợp.
– Người quản giáo phải nghiên cứu các đặc điểm của phạm nhân một cách liên tục trong suốt quá trình cải tạo, đồng thời ghi nhận được sự chuyển biến của những đặc điểm này để đề ra phương án xây dựng kế hoạch cải tạo hợp lý.
* Nội dung:
– Nhận thức các đặc điểm nhân thân của phạm nhân như nhu cầu, hứng thú, các đặc điểm tâm lý tiêu cực, tích cực, hoàn cảnh gia đình, các mối quan hệ XH, nghề nghiệp, trình độ VH của phạm nhân; những tình huống, hoàn cảnh cụ thể mà phạm nhân đã thực hiện hành vi phạm tội; hệ thống các biện pháp áp dụng chung, riêng…để giáo dục phạm nhân và giúp phạm nhân cải tạo tốt hơn.
3. Trình bày sự khác nhau về hoạt động nhận thức giữa các giai đoạn điều tra, xét xử và cải tạo?
Hoạt động giáo dục của giai đoạn điều tra và xét xử đã có trong tài liệu
Giai đoạn cải tạo:
* Chủ thể giáo dục: Là cán bộ quản giáo và người phạm tội nhưng chủ yếu là cán bộ quản giáo
* Đối tượng được giáo dục: Người phạm tội.
* Mục đích:
* Đặc điểm:
– Chủ thể quan trọng nhất là cán bộ quản giáo, hoạt động giáo dục hướng đến đối tượng đặc thù là người phạm tội.
– Nội dung giáo dục sâu rộng, toàn diện, mang tính hệ thống, bài bản nhằm thay đổi cách nhìn nhận, quan điểm, lập trường, hình thành một số kỷ năng, kỹ xảo, nghề nghiệp mưu sinh cho người phạm tội. Hoạt động giáo dục trong quá trình cải tạo có thể coi là hoạt động quan trọng nhất tác động đến người phạm tội, nó là mục đích cuối cùng của hoạt động tố tụng.
– Mang tính cưỡng chế, không mang tính công khai như trong giai đoạn xét xử. Trong hoạt động này luôn tồn tại mối quan hệ bất bình đẳng giữa chủ thể và đối tượng giáo dục đồng thời thể hiện sâu sắc ý chí của chủ thể giáo dục.
– Phương tiện giáo dục: mang tính đa dạng, phong phú (thông qua ngôn ngữ, phi ngôn ngữ, tài liệu, phim ảnh, con người thực tế, thông qua các hoạt động sản xuất, lao động, học tập, giải trí…)
– Thời gian tác động: mang tính ổn định, lâu dài.
* Nội dung:
– Giáo dục về chính sách, pháp luật của Nhà nước
– Giáo dục về nhân cách
– Giáo dục về kỷ năng và thói quen lao động
– Chuẩn bị tâm lý để tái hòa nhập cộng đồng.
4. Đặc điểm tâm lý của phạm nhân và tập thể phạm nhân? Ý nghĩa?
a. Đặc điểm tâm lý:
* Của phạm nhân:
– Có thể là chán chướng, buồn bã, bất cần, mặc kệ, phó thác cho người quản giáo. Lo lắng, sợ hãi về các biện pháp giáo dục sẽ bị áp dụng cũng như các mối quan hệ gia đình, XH trong hiện tại và tương lai. Mặc cảm, tránh tiếp xúc.
– Tuy nhiên cũng có những tâm lý khác như:
+ Đối với những phạm nhân đã hoàn toàn hối hận thì họ thích nghi với môi trường, tham gia tích cực vào các hoạt động của trại, tích cực cải tạo tốt để sớm trở về với gia đình.
+ Đối với những phạm nhân cho rằng bị oan hoặc cho mức án quá nặng, không nhận thức được hành vui nguy hiểm của mình thì thờ ơ, lạnh nhạt với các hoạt động của trại, nếu có cũng là đối phó, phản kháng, mang tính chiếu lệ, có khi trốn trại nếu có điều kiện.
+ Đối với những phạm nhân phạm tội chuyên nghiệp, tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm… thì có thể là lạnh nhạt với cuộc sống trong trại, có thể là giả tạo chấp hành tốt nội quy trại nhưng sẵn sàng phản kháng, trốn trại khi có sơ hở.
– Ngoài ra đặc điểm tâm lý của phạm nhân còn tùy thuộc từng giai đoạn khác nhau của quá trình chấp hành hình phạt như:
+ Giai đoạn bắt đầu vào trại: là giai đoạn thích nghi, làm quen nên tâm lý chung thường là buồn bã, chán nản, bi quan, dễ nổi giận do sự thay đổi quá lớn trong cuộc sống.
+ Giai đoạn hình thành những hứng thú, nhu cầu lành mạnh trong điều kiện mới ở trại: phạm nhân bắt đầu thích nghi với hoàn cảnh sống hiện tại.
+ Giai đoạn thích nghi với môi trường: đa số PN nhận thức được hậu quả do hành vi phạm tội của họ gây ra, quyết tâm chấp hành tốt các quy định học tập, cải tạo ở trại để sớm trở về.
+ Giai đoạn trước khi trả tự do: hồi hộp, náo nức khi gần được tự do nhưng cũng lo lắng về những khó khăn trước mắt mà họ phải gặp khi tái hòa nhập cộng đồng làm cho họ dễ cáu gắt, chán nản.
* Của tập thể phạm nhân:
– Thường tồn tại những mâu thuẫn, xung đột tâm lý, bởi vì các thành viên của tập thể thường là những người có tâm lý tiêu cực, khiếm khuyết nhân cách nên dễ tạo ra một tập thể xung đột.
– Thường có những nhóm nhỏ có biểu hiện tâm lý tiêu cực bởi vì những nhóm này thường liên kết với nhau nhằm thỏa mãn các nhu cầu hứng thú tiêu cực, lệch lạc.
– Thường xảy ra hiện tượng lây lan tâm lý.
b. Ý nghĩa:
– Áp dụng các phương pháp tác động tâm lý phù hợp.
– Kịp thời phát hiện những xung đột nhỏ trong tập thể phạm nhân; ngăn chặn sự xuất hiện các nhóm nhỏ tiêu cực, đồng thời có những biện pháp nhằm xóa bỏ tâm lý tiêu cực trong tập thể phạm nhân.
Nội dung bài viết:
Bình luận