Các tình huống chia tài sản thừa kế theo pháp luật

Trong các tình huống chia tài sản thừa kế, việc quyết định và phân bổ di sản là một quá trình phức tạp và cần sự chính xác. Hãy cùng tím hiểu cách giải quyết các tình huống chia tài sản thừa kế cụ thể dưới đây nhé!Các tình huống chia tài sản thừa kế theo pháp luật

Các tình huống chia tài sản thừa kế theo pháp luật

Tình huống chia tài sản thừa kế

Tình huống 1

Vào ngày 12/01/2021, bố anh Nam đã viết tay một bản di chúc trên một tờ giấy A4, chỉ định rằng toàn bộ tài sản của ông sẽ được chuyển giao cho anh Nam. Tuy nhiên, bản di chúc này không đi qua quá trình công chứng và xác nhận chính thức. Khi năm 2022 bắt đầu, bố của anh Nam qua đời. Anh trai và chị gái của anh Nam đã phát sinh tranh chấp liên quan đến tài sản, đồng thời yêu cầu việc phân phối lại tài sản mà bố của anh Nam đã để lại. Lập luận của họ là vì bản di chúc từ ngày 12/01/2021 không được công chứng và xác nhận chính thức nên nó không có giá trị pháp lý. Anh Nam muốn biết liệu bản di chúc của bố mình đã lập có được coi là hợp lệ hay không khi nó không qua quá trình công chứng và xác nhận?

Giải đáp: 

Theo Điều 630 của Bộ luật Dân sự năm 2015, để một di chúc được xem là hợp pháp, nó cần đáp ứng các yêu cầu sau:

  1. Di chúc phải được lập bởi một người tỉnh táo, sáng suốt, không bị lừa dối, đe dọa hoặc bị ép buộc.
  2. Nội dung của di chúc không được vi phạm bất kỳ quy định nào của pháp luật và phải tuân thủ đạo đức xã hội. Hình thức viết di chúc cũng không được vi phạm quy định của luật.
  3. Di chúc của người từ 15 đến chưa đủ 18 tuổi cần được lập bằng văn bản và phải có sự đồng ý của cha mẹ hoặc người giám hộ.
  4. Di chúc của người có hạn chế về thể chất hoặc không biết đọc biết viết cần được người làm chứng chứng thực và ký tên.
  5. Nếu di chúc không được công chứng hoặc chứng thực, nó chỉ được xem là hợp pháp nếu đáp ứng đủ các điều kiện nêu trên.
  6. Di chúc miệng chỉ được coi là hợp pháp khi được thực hiện trước ít nhất hai người làm chứng, và sau đó, trong vòng 5 ngày làm việc, nó cần được xác nhận bằng công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền.

Dựa trên quy định trên, di chúc mà bố của anh Nam đã lập (viết tay trên tờ giấy A4 và không được công chứng) chỉ có giá trị pháp lý nếu đáp ứng tất cả các yêu cầu được liệt kê trên.

Tình huống 2

Vào ngày 20/10/2021, khi anh Hà đang tham gia giao thông trên con đường, anh đã va chạm với một xe container và gặp phải vết thương nặng. Trên đường đến bệnh viện, trên xe cứu thương, anh Hà đã trình bày trước một bác sĩ và một điều dưỡng viên về di nguyện của mình. Anh muốn chuyển toàn bộ số tiền tiết kiệm trong ngân hàng X cho vợ của mình, bà Lan, và để lại một ngôi nhà ba tầng tại Phường X, quận Y, tỉnh N cho chị Mỹ - người yêu cũ của anh. Câu hỏi đặt ra là: để di nguyện này của anh Hà được coi là hợp pháp, điều kiện gì cần được đáp ứng?

Giải đáp:

Điều 629 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về di chúc miệng như sau:

     "1. Trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa và không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể lập di chúc miệng.

  1. Sau 03 tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ

Khoản 5 Điều 630 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng

Đầu tiên, anh Hà, người đã di nguyện miệng, đã thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng. Điều này cần tuân thủ các điều kiện theo Điều 632 của Bộ luật Dân sự năm 2015, chỉ định rằng các người làm chứng không được là:

  1. Người được thừa kế theo di chúc hoặc theo quy định pháp luật về di chúc.
  2. Người liên quan trực tiếp đến tài sản được đề cập trong di chúc.
  3. Người chưa đủ tuổi, người không có năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong việc nhận thức và kiểm soát hành vi của mình.

Thứ hai, ngay sau khi anh Hà di nguyện miệng, người làm chứng đã ghi lại và cùng ký tên hoặc điểm chỉ.

Thứ ba, theo quy định, trong vòng 5 ngày làm việc sau khi anh Hà di nguyện miệng, di chúc cần được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của những người làm chứng.

Tóm lại, nếu di chúc của anh Hà tuân theo đúng các quy định trên, nó sẽ được coi là hợp pháp và có hiệu lực khi anh qua đời.

Tình huống 3

Năm 1970, ông L và bà N kết hôn và có ba người con: A, B và T. Sau khi ông L qua đời vào năm 2019 mà không để lại di chúc, vào năm 2022, bà N cùng ba người con họp để thỏa thuận về việc chia tài sản. Tại thời điểm đó, tài sản của ông L bao gồm 2 căn nhà và 300 triệu đồng.

Trong buổi họp, bà N cùng hai người con trai là B và T đồng tình rằng mỗi người con trai sẽ nhận một căn nhà, và 300 triệu sẽ được chia đều cho bà N, B, T và A. Tuy nhiên, chị A không đồng tình với việc này và cho rằng tất cả các con cần được hưởng đồng đều từ tài sản của ông. Chị A đề nghị hai người anh của mình cần thanh toán cho mình một khoản tiền tương ứng với giá trị của phần tài sản mà họ nhận.

Câu hỏi đặt ra là liệu quan điểm của chị A có đúng hay không?

Giải đáp: 

rong tình huống mà A đề cập, quan điểm của A hoàn toàn tuân theo các quy định của pháp luật.

Theo Điều 610 của Bộ luật dân sự 2015: “Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”

Điều 651 của Bộ luật Dân sự năm 2015 cung cấp hướng dẫn về thứ tự và người được thừa kế theo quy định sau đây:

  1. Hàng thừa kế đầu tiên bao gồm: vợ, chồng, cha, mẹ, cha nuôi, mẹ nuôi, con, con nuôi của người qua đời;
  2. Hàng thừa kế thứ hai bao gồm: ông, bà nội, ông, bà ngoại, anh, chị, em ruột của người chết, cũng như cháu ruột của người chết khi người đó là ông, bà nội, ông, bà ngoại;
  3. Hàng thừa kế thứ ba bao gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết, cũng như các bác, chú, cậu, cô, dì ruột của người chết, và cháu ruột của người chết dựa trên mối quan hệ với người đó.

Trong pháp luật, việc phân chia tài sản gia đình có thể thực hiện theo một số cách khác nhau dựa trên sự thỏa thuận giữa các bên liên quan. Tuy nhiên, việc quyết định cách phân chia cần dựa trên nguyên tắc công bằng và đối xử bình đẳng với mỗi người thừa kế. Nếu chị A cảm thấy mình bị thiệt thòi so với các anh em của mình trong việc phân chia tài sản, chị có quyền yêu cầu một sự điều chỉnh hoặc giải quyết tranh chấp thông qua hệ thống pháp luật. Điều này có thể liên quan đến việc định giá tài sản hoặc các yếu tố khác có thể ảnh hưởng đến quyết định phân chia. Vì vậy, A có quyền yêu cầu sự công bằng trong việc phân chia tài sản, và quan điểm của A phản ánh đúng những quy định trên.

Các tình huống chia tài sản thừa kế theo pháp luật

Các tình huống chia tài sản thừa kế theo pháp luật

 

Tình huống 4

Anh Hoàng là con trai duy nhất của ông Tân. Sau khi ông Tân qua đời vào ngày 01/01/2022, ông để lại di chúc chỉ định anh Hoàng là người thừa kế toàn bộ di sản của mình. Tuy nhiên, trước khi ông qua đời, vì các vấn đề kinh doanh không thuận lợi, anh Hoàng đang đối mặt với một vụ kiện từ công ty A vì bị cáo buộc vi phạm hợp đồng kinh tế, và số tiền mà anh phải chịu trách nhiệm là khá lớn. Sau khi ông mất, anh Hoàng đã quyết định từ chối quyền thừa kế của mình. Phát hiện việc anh Hoàng đang cố gắng tránh trách nhiệm tài chính, công ty A đã quyết định khởi kiện, đòi hỏi anh không được từ chối quyền thừa kế. Câu hỏi đặt ra là liệu yêu cầu của công ty A có cơ sở pháp lý hay không?

Giải đáp:

Điều 620 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:

    "1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.

  1. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản và gửi đến người quản lý di sản, những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản để biết.
  2. Việc từ chối nhận di sản phải được thể hiện trước thời điểm phân chia di sản

Anh Hoàng có quyền lựa chọn không nhận di sản từ ông bố của mình. Tuy nhiên, việc từ chối này cần tuân thủ một số điều kiện quy định:

  1. Anh Hoàng không được sử dụng việc từ chối này như một biện pháp để trốn tránh trách nhiệm tài chính của mình đối với công ty A.
  2. Anh cần lập một văn bản chính thức từ chối quyền thừa kế và gửi nó đến các bên liên quan như người quản lý tài sản, các người thừa kế khác, và những người được giao trách nhiệm phân phối di sản.
  3. Việc từ chối phải được thực hiện trước khi di sản được phân chia.

Do đó, nếu công ty A có bằng chứng cho thấy anh Hoàng từ chối di sản nhằm mục đích tránh trách nhiệm với công ty, họ có thể tiến hành khởi kiện và yêu cầu bỏ qua quyết định từ chối di sản của anh.

Tình huống 5

Bà X có chồng là ông Y và có 03 người con là A, B, và C, đều đã trưởng thành và có khả năng lao động. Vào đầu năm 2021, bà X qua đời do tai nạn giao thông. Sau sự kiện tang lễ, ông Y tiếp tục quản lý và sử dụng ngôi nhà cùng thửa đất có diện tích 500m2, mà được xem là tài sản riêng của bà X. Vào cuối năm 2021, ông Y đã đưa bà H về sống chung như một cặp vợ chồng. Trong tình hình này, khi ông Y không cho phép bà H sử dụng tài sản của bà X, các con của ông và bà X đã cố gắng thỏa thuận với ông Y về việc phân chia di sản, nhưng không thành công. Ông Y cho rằng vì bà X không để lại di chúc và anh là người chồng của bà X, ông có quyền thừa kế toàn bộ tài sản của bà X. Câu hỏi đặt ra là liệu quan điểm này của ông Y có phù hợp với quy định pháp luật không?

Giải đáp:

Khoản 1 Điều 650 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:

"Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây:

  1. a) Không có di chúc;
  2. b) Di chúc không hợp pháp;
  3. c) Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế;
  4. d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản”.

Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:

"1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

  1. a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
  2. b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
  3. c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại
  4. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
  5. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.”

Trong tình hình mô tả trước, A, B, C và ông Y đều thuộc nhóm thừa kế hàng đầu của bà X. Do đó, theo quy định pháp luật, A, B, C và Y có quyền hưởng di sản từ bà X một cách bình đẳng. Quan điểm của ông Y, cho rằng ông là người duy nhất được thừa kế toàn bộ tài sản của bà X, không tuân thủ quy định pháp luật.

Tình huống 6

Bà Thân, 80 tuổi, gặp vấn đề về thị lực và trí nhớ, có hai người con là anh Thủy và chị Hằng. Vào đầu năm 2021, chị Hằng đã đón bà về sống và chăm sóc. Trong những buổi trò chuyện, bà Thân thường kể về những khoảnh khắc không vui khi cô sống với anh Thủy, nói rằng anh Thủy không chăm sóc bà và thậm chí còn có những hành vi thiếu đối xử. Bà Thân qua đời vào tháng 02 năm 2022 mà không để lại di chúc. Anh Thủy sau đó muốn chia tài sản của mẹ, nhưng chị Hằng không đồng tình. Chị cho rằng vì anh Thủy không quan tâm, chăm sóc bà, thậm chí có hành động thiếu tôn trọng, anh không nên được hưởng di sản của bà.

Giải đáp:

Khoản 2 Điều 71 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Con có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ mất năng lực hành vi dân sự, ốm đau, già yếu, khuyết tật; trường hợp gia đình có nhiều con thì các con phải cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ

Điều 621 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:

"1. Những người sau đây không được quyền hưởng di sản:

a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;

b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;

c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;

d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.

Những người quy định tại khoản 1 Điều này vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc”.

Dựa trên thông tin cung cấp, nếu chị Hằng có bằng chứng cụ thể để chứng minh anh Thủy đã vi phạm trách nhiệm chăm sóc mẹ mình một cách nghiêm trọng, theo quy định tại khoản 1, điều 621 của Bộ luật Dân sự năm 2015, anh Thủy sẽ không được phép thừa kế di sản của mẹ.

Các tình huống chia tài sản thừa kế theo pháp luật

Các tình huống chia tài sản thừa kế theo pháp luật

 

Tình huống 8

Ông Mùi muốn thừa kế khoản tài sản của mình, là 500 triệu, cho các con sau khi ông qua đời. Ông đã nhờ một người giúp việc soạn thảo bản di chúc và mời ông Hạ cùng bà Đông - hai người hàng xóm - làm chứng cho việc viết di chúc của ông. Liệu ông Hạ và bà Đông có đủ điều kiện để làm chứng cho việc này?

Giải đáp:

Điều 632 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:

          “Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:

  1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc.
  2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc.
  3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

Dựa vào quy định đã nêu, ông Hạ và bà Đông, là những người hàng xóm của ông Mùi, không thuộc vào các trường hợp bị cấm làm chứng như: người thừa kế theo di chúc hoặc theo quy định pháp luật; người liên quan trực tiếp đến tài sản trong di chúc; người chưa đủ tuổi, người mất khả năng hành vi dân sự, hoặc người gặp khó khăn trong việc nhận thức và kiểm soát hành vi. Do đó, ông Hạ và bà Đông có thể làm chứng cho bản di chúc của ông Mùi.

Tình huống 9

Ông Hạ, muốn lập di chúc để chia tài sản cho các con sau khi mình qua đời, nhưng do vấn đề về thị lực, ông không thể viết chính xác. Do đó, ông đã nhờ một người khác đánh máy di chúc thay. Để xác nhận tính hợp pháp của việc này, ông Hạ chỉ nhờ một người hàng xóm, ông Mùi, làm chứng cho quá trình viết di chúc. Liệu việc chỉ có một người làm chứng như vậy có phù hợp với quy định?

Giải đáp:

Điều 634 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:

          “Trường hợp người lập di chúc không tự mình viết bản di chúc thì có thể tự mình đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc. Việc lập di chúc bằng văn bản có người làm chứng phải tuân theo quy định tại Điều 631 và Điều 632 của Bộ luật này

Dựa vào quy định đã nêu, khi ông Hạ nhờ người khác đánh máy di chúc, ông cần ít nhất hai người để làm chứng cho quá trình này. Vì vậy, việc ông chỉ sử dụng một người làm chứng (ông Mùi) cho việc lập di chúc không tuân theo quy định pháp luật.

Tình huống 10

Bà Đào Thị Mai, với tình trạng sức khỏe yếu đi, mong muốn lập di chúc để chia tài sản cho các con của mình. Mục tiêu của bà là để đảm bảo rằng sau khi bà qua đời, không có xích mích về tài sản giữa các con. Bà muốn tìm hiểu quy trình lập di chúc tại Ủy ban nhân dân cấp xã được tiến hành như thế nào?

Giải đáp:

Điều 636 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:

          Việc lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã phải tuân theo thủ tục sau đây:

Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã phải ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã ký vào bản di chúc.

Trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng”.

  • Người muốn lập di chúc sẽ công bố nội dung di chúc trước một quan chức có thẩm quyền tại Ủy ban nhân dân cấp xã. Quan chức này sẽ ghi lại nội dung di chúc mà người lập đã công bố. Sau khi đảm bảo nội dung đã được ghi chép đúng và phản ánh đúng ý của người lập, họ sẽ ký lên bản di chúc.
  • Trong trường hợp người lập di chúc không thể đọc hoặc nghe di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ, họ sẽ cần có người làm chứng. Người này sẽ cần ký một văn bản xác nhận trước mặt quan chức có thẩm quyền tại Ủy ban nhân dân cấp xã. Quan chức này sau đó sẽ chứng nhận di chúc trước mặt cả người lập di chúc và người làm chứng.

Tình huống 11

Bà Đỗ Thị Nhị đang mắc bệnh Covid-19 và được điều trị tại Bệnh viện nhiệt đới Trung ương ở Hà Nội. Trong thời gian bà ở đây, bà đã viết một di chúc bằng tay. Bà quan tâm liệu bản di chúc viết tay của mình có được coi là hợp lệ như khi đã được công chứng hoặc chứng thực không?

Giải đáp: 

Điều 638 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được công chứng hoặc chứng thực như sau:

          “1. Di chúc của quân nhân tại ngũ có xác nhận của thủ trưởng đơn vị từ cấp đại đội trở lên, nếu quân nhân không thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực.

  1. Di chúc của người đang đi trên tàu biển, máy bay có xác nhận của người chỉ huy phương tiện đó.
  2. Di chúc của người đang điều trị tại bệnh viện, cơ sở chữa bệnh, điều dưỡng khác có xác nhận của người phụ trách bệnh viện, cơ sở đó.
  3. Di chúc của người đang làm công việc khảo sát, thăm dò, nghiên cứu ở vùng rừng núi, hải đảo có xác nhận của người phụ trách đơn vị.
  4. Di chúc của công dân Việt Nam đang ở nước ngoài có chứng nhận của cơ quan lãnh sự, đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước đó.
  5. Di chúc của người đang bị tạm giam, tạm giữ, đang chấp hành hình phạt tù, người đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh có xác nhận của người phụ trách cơ sở đó

Dựa trên thông tin trên, bà Đỗ Thị Nhị hiện đang điều trị tại Bệnh viện nhiệt đới Trung ương ở Hà Nội và đã viết một di chúc bằng tay. Vì vậy, di chúc của bà có thể được coi là hợp lệ như di chúc đã được công chứng hoặc chứng thực, miễn là có sự xác nhận từ người đứng đầu bệnh viện.

Tình huống 12

Ông Đặng Văn Nghĩ có ba người con là Đặng Thị Phúc, Đặng Thị Lộc, và Đặng Văn Thọ, trong khi vợ của ông đã qua đời từ lâu. Năm 2019, ông Nghĩ đã viết một bản di chúc, quyết định để lại toàn bộ tài sản cho ba người con của mình. Tuy nhiên, vào cuối năm 2021, ông Nghĩ đã quen biết bà Nguyễn Thị Lan và đã quyết định chia sẻ cuộc sống với bà, cùng nhau chăm sóc nhau khi đã gia nhập tuổi già. Do sự chăm sóc tận tâm từ bà Lan, ông Nghĩ muốn điều chỉnh di chúc của mình để phần nào để lại cho bà Lan. Vậy, ông có quyền sửa đổi bản di chúc mà ông đã lập năm 2019 hay không?

Giải đáp: 

Dựa theo quy định tại Điều 640 Bộ luật Dân sự năm 2015: “1. Người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc đã lập vào bất cứ lúc nào. 2. Trường hợp người lập di chúc bổ sung di chúc thì di chúc đã lập và phần bổ sung có hiệu lực pháp luật như nhau; nếu một phần của di chúc đã lập và phần bổ sung mâu thuẫn nhau thì chỉ phần bổ sung có hiệu lực pháp luật. 3. Trường hợp người lập di chúc thay thế di chúc bằng di chúc mới thì di chúc trước bị hủy bỏ,” do đó, ông Nghĩ có quyền và khả năng sửa đổi bản di chúc mà ông đã lập vào năm 2019 để phản ánh quyết định của mình về việc chia sẻ tài sản với bà Nguyễn Thị Lan.

Tình huống 13

Trước khi qua đời, cha của anh Đồng đã lập di chúc với nội dung sau: 300 triệu tiền mặt sẽ được chia đều cho anh Đồng, chị Tiến, và chị Đại (chị gái của anh Đồng) mỗi người nhận 100 triệu; và ngôi nhà cấp 4 cùng thửa đất 200 m2, nơi mà cha anh Đồng đã sinh sống trước đó, sẽ được sử dụng cho mục đích thờ cúng. Anh Đồng được giao trách nhiệm quản lý, trông coi, và thực hiện nghi lễ thờ cúng ông bà tổ tiên tại đây.

Tuy nhiên, do khó khăn trong kinh doanh, anh Đồng muốn bàn bạc với chị Tiến và chị Đại về việc chuyển nhượng một phần thửa đất 200 m2 cho anh để có thể bán và dùng tiền thu được để thanh toán nợ nần. Chị Tiến và chị Đại lại không đồng tình với đề xuất này của anh Đồng. Vậy, liệu anh Đồng có quyền yêu cầu chia sẻ tài sản thừa kế liên quan đến di sản dành cho mục đích thờ cúng không?

Giải đáp:

Trong di chúc mà cha của anh Đồng đã lập, có quy định rõ ràng rằng ngôi nhà cấp 4 cùng với thửa đất 200 m2 phải được sử dụng cho mục đích thờ cúng. Theo Điều 645, khoản 1 của Bộ luật Dân sự năm 2015, “Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng…” Do đó, ngôi nhà và thửa đất nêu trên không nằm trong phạm vi chia thừa kế.

Trong di chúc, cha của anh Đồng đã ủy quyền cho anh làm người quản lý ngôi nhà cấp 4 và thửa đất 200 m2 để thực hiện nghi thức thờ cúng cho ông bà tổ tiên. Nếu anh Đồng không thực hiện đúng theo di chúc, chị Tiến và chị Đại đều có quyền giao phần tài sản đó cho một người khác để thực hiện nghi lễ thờ cúng.

Tình huống 14

Trong gia đình ông Hà Văn Trọng, ông có tổng cộng 5 người con: bà Hà Thị Nương, bà Hà Thị Vương, bà Hà Thị Hường, ông Hà Văn Cảnh, và ông Hà Văn Khánh. Trong số đó, bà Nương là mẹ của hai người con trai là anh Nguyễn Văn Hải và anh Nguyễn Văn Nam. Bà Nương đã qua đời vào năm 2018 và ông Trọng, không để lại bất kỳ di chúc nào, cũng qua đời vào năm 2021.

Khi gia đình họp để thảo luận về việc phân chia di sản, ông Hà Văn Cảnh cho rằng chỉ có 04 người con còn sống của ông Trọng, tức là bà Hà Thị Vương, bà Hà Thị Hường, ông Hà Văn Cảnh, và ông Hà Văn Khánh, mới có quyền thừa kế tài sản của ông Trọng. Trái lại, anh Nguyễn Văn Nam không đồng tình với quan điểm của ông Cảnh. Theo anh Nam, bởi vì mẹ anh, bà Nương, đã qua đời trước khi ông Trọng, cả anh Nam và anh Hải cũng nên được coi là người thừa kế tài sản của ông Trọng.

Giải đáp: 

Theo Điều 652 của Bộ luật Dân sự năm 2015: “Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống”

Trong trường hợp được nêu ra, bà Nương, là một trong số con cái của ông Trọng, đã qua đời trước ông Trọng. Do đó, anh Nguyễn Văn Hải và anh Nguyễn Văn Nam, là con trai của bà Nương, sẽ thừa kế phần tài sản mà bà Nương sẽ nhận được nếu bà còn sống. Vì vậy, quan điểm của anh Nguyễn Văn Nam hoàn toàn tuân theo quy định của pháp luật.

Tình huống 15

Bà Nguyễn Thị Hà, mặc dù muốn lập di chúc để phân chia tài sản cho các con, nhưng do chân bị đau và khó di chuyển. Bà muốn biết liệu có thể yêu cầu một công chứng viên đến nhà để lập di chúc hay không và quy trình cụ thể khi thực hiện việc lập di chúc tại nơi ở.

Giải đáp:

Bộ luật Dân sự năm 2015 đề cập đến việc lập di chúc và các quy trình liên quan như sau:

  1. Người muốn lập di chúc có thể yêu cầu một công chứng viên đến nơi ở của họ để tiến hành việc này.
  2. Quy trình lập di chúc tại nơi ở sẽ tuân theo các quy định giống như việc lập di chúc tại một tổ chức hành nghề công chứng.

Cụ thể:

  • Người muốn lập di chúc sẽ trình bày nội dung di chúc trước một công chứng viên. Công chứng viên sau đó sẽ ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đưa ra. Sau khi di chúc được ghi chép, người lập di chúc sẽ ký hoặc chỉ đến trên bản di chúc, xác nhận rằng mọi thông tin đã được ghi chép chính xác và đại diện cho ý chí của mình. Công chứng viên cũng sẽ ký vào bản di chúc.
  • Trong trường hợp người muốn lập di chúc không thể tự mình đọc, nghe, ký hoặc chỉ đến bản di chúc, họ cần có một người làm chứng. Người này sẽ xác nhận trước công chứng viên về việc di chúc đã được tổ chức một cách chính xác. Sau đó, công chứng viên sẽ tiến hành việc chứng nhận di chúc trước mặt người muốn lập di chúc và người làm chứng.

Câu hỏi thường gặp

Câu hỏi 1: Di sản thừa kế gồm những gì?

Trả lời: Di sản bao gồm tất cả tài sản riêng và phần tài sản chung mà người mất sở hữu, theo Điều 612 của Bộ luật Dân sự 2015.

Câu hỏi 2: Ai là người thừa kế theo pháp luật?

Trả lời: Điều 651 của Bộ luật Dân sự 2015 đã chỉ ra các đối tượng thừa kế theo pháp luật:

  1. Hàng thừa kế thứ nhất: vợ/chồng, cha/mẹ, cha/mẹ nuôi, con ruột của người mất.
  2. Hàng thừa kế thứ hai: ông/bà nội, ông/bà ngoại, anh/chị/em ruột, cháu ruột.
  3. Hàng thừa kế thứ ba: cụ nội/cụ ngoại, bác ruột, chú/cậu/dì/cô ruột và cháu ruột của họ.

Những người cùng hàng thừa kế sẽ được chia di sản bằng nhau. Còn những người ở hàng sau chỉ có quyền thừa kế khi không còn ai ở hàng thừa kế trước đó còn sống hoặc có quyền hưởng di sản.

Câu hỏi 3: Di sản được chia như thế nào khi không có di chúc?

Trả lời: Theo Điều 650 của Bộ luật Dân sự 2015, khi không có di chúc, di sản sẽ được phân chia dựa trên quy định của pháp luật về thừa kế, bao gồm hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế được pháp luật quy định.

Câu hỏi 4: Quy trình khai nhận di sản thừa kế theo di chúc như thế nào?

Trả lời:

Khi hồ sơ được kiểm tra và đảm bảo đầy đủ và phù hợp với quy định pháp luật, cơ quan công chứng sẽ thực hiện việc niêm yết công khai tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi người để lại di sản có nơi thường trú hoặc tạm trú gần đó. Nếu không xác định được nơi nào, sẽ được niêm yết tại Ủy ban nhân dân cấp xã gần nhất có bất động sản của người đó.

Sau mười lăm ngày niêm yết, nếu không có yêu cầu khiếu nại hoặc tố cáo nào, cơ quan công chứng sẽ chứng nhận văn bản thừa kế. Đối với trường hợp chỉ có một người thừa kế, họ sẽ lập văn bản khai nhận di sản theo quy định của Điều 50 Luật Công chứng. Trong trường hợp có nhiều người thừa kế, họ có thể lựa chọn việc lập văn bản khai nhận di sản (nếu tất cả cùng nhận và không có thỏa thuận phân chia) hoặc lập văn bản thỏa thuận phân chia di sản theo Điều 57 Luật Công chứng 2014.

Khi việc khai nhận di sản thừa kế được thực hiện tại tổ chức công chứng, người thừa kế sẽ thực hiện thủ tục chuyển tên trên các giấy tờ liên quan đến tài sản như Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc quyền sở hữu nhà ở tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thuộc cấp huyện.

Hồ sơ bao gồm: văn bản khai nhận thừa kế đã được công chứng, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà, và các giấy tờ khác liên quan như giấy tờ tùy thân, giấy chứng tử, di chúc...

 

Nội dung bài viết:

    Đánh giá bài viết: (376 lượt)

    Để lại thông tin để được tư vấn

    Họ và tên không được để trống

    Số điện thoại không được để trống

    Số điện thoại không đúng định dạng

    Email không được để trống

    Vấn đề cần tư vấn không được để trống

    Bài viết liên quan

    Phản hồi (0)

    Hãy để lại bình luận của bạn tại đây!

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo