Tổng hợp các bản án về phạt vi phạm hợp đồng mới nhất

1. Bản án về tranh chấp hợp đồng thế chấp số 83/2024/DS-PT

https://docs.google.com/document/d/1QgTsU-YeDtAZTkP9FtfAUft-umW80qIz/edit?usp=sharing&ouid=102047713431837797912&rtpof=true&sd=true

 

TÒA ÁN NHÂN DÂN

 

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM                                                 

TỈNH ĐẮK LẮK

 

Độc lập - Tự do – Hạnh phúc

Bản án số: 83/2024/DS-PT

Ngày 06 - 02 - 2024

V/v “Tranh chấp hợp

 đồng thế chấp”

 NHÂN DANH 

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

 TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

 - Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có: 

Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Duy Thuấn. 

Các Thẩm phán: Bà Đinh Thị Tuyết, ông Văn Công Dần. 

- Thư ký phiên tòa: Ông Vũ Văn Hoàng - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk. 

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk: Bà Lê Thị Bích Thủy - Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.

Ngày 06 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ lý số: 458/2023/TLPT-DS, 30 tháng 11 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng thế chấp”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 28/2023/DS-ST, ngày 15 tháng 6 năm 2023 của Toà án nhân dân huyện K bị kháng cáo.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 463/2023/QĐ-PT ngày 13 tháng 12 năm 2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ. Trụ sở chính: Số A P, phường C, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Hoàng Tuấn P, sinh năm 1985 – Trưởng phòng phát triển kinh doanh Ngân hàng TMCP Đ, chi nhánh Đ1. Địa chỉ: Số I P, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.

- Bị đơn: Ông Đặng H, sinh năm 1941; bà Lê Thị H1, sinh năm 1943. Địa chỉ: Thôn P, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt.

Người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn: Ông Đặng Anh M, sinh năm 1976. Địa chỉ: 1 Q, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Phan Hữu T sinh năm 1964. Địa chỉ: Thôn D, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt.

Người đại diện theo ủy quyền của ông Phan Hữu T: Ông Nguyễn Trung S sinh năm 1983. Địa chỉ: số A N nối dài, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Văn Hữu D, sinh năm 1968; bà Đặng Thị Hương G, sinh năm 1973. Địa chỉ: Thôn P, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt.

* Người kháng cáo: Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Hoàng Tuấn P trình bày:

Khách hàng: Ông Văn Hữu D, Bà Đặng Thị Hương G có quan hệ tín dụng với Ngân hàng TMCP Đ Chi nhánh D1 (sau đây gọi tắt là Ngân hàng Đ), chi tiết như sau:

  1. Tổng hạn mức cấp tín dụng: 1.700.000.000 VNĐ (Bằng chữ: Một tỷ bảy trăm triệu đồng) theo Hợp đồng vay vốn ngắn hạn số K.1780/1 ký ngày 15/12/2005, chi tiết như sau:

Hợp đồng vay số: K.1780/1; Số tiền vay: 1.700.000.000 VNĐ (Bằng chữ: Một tỷ bảy trăm triệu đồng), Lãi suất: 1,1%/tháng. Thời hạn vay: 12 tháng. Mục đích cho vay: bổ sung vốn kinh doanh.

  1. Biện pháp đảm bảo: Khách hàng Văn Hữu D - Đặng Thị Hương G thế chấp cho Ngân hàng Đ tài sản là bất động sản theo hợp đồng thế chấp số K8085/BLBĐS ký ngày 15/12/2005.

Chi tiết như sau: Bất động sản thuộc thửa đất số 210a, tờ bản đồ số 22, có diện tích 1290m2 toạ lạc tại xã E, huyện K, tỉnh Đăk Lăk; theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: H083811 do UBND huyện K, tỉnh Đăk Lăk cấp ngày 23/12/1995. Hợp đồng thế chấp nêu trên đã được công chứng, đăng ký giao dịch đảm bảo theo đúng quy định.

Trong quá trình vay vốn, do ông D, bà G không thực hiện đúng nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng tín dụng nên Ngân hàng đã khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện K và đã được giải quyết bằng Quyết định công nhận sự thỏa thuận số 110/2008/QĐST-DS, ngày 20/8/2008 với nội dung buộc bà G, ông D trả cho Ngân hàng số tiền vay, lãi suất phát sinh theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, Ngân hàng chưa yêu cầu giải quyết về nghĩa vụ bảo lãnh (Hợp đồng thế chấp tài sản để bảo lãnh vay vốn Ngân hàng).

Về quá trình thực hiện hợp đồng: Sau khi có Quyết định công nhận sự thỏa thuận, tính đến ngày 15/06/2022, khách hàng: Văn Hữu D – Đặng Thị Hương G chỉ trả được tổng số tiền như sau: Vốn: 1.347.021.000 VNĐ, Lãi trong hạn: 20.000.000 VNĐ, Lãi quá hạn: 0 VNĐ, Tổng cộng: 1.367.021.000VNĐ (Bằng chữ: Một tỷ ba trăm sáu mươi bảy triệu không trăm hai mươi mốt nghìn đồng). Do khách hàng: Văn Hữu D – Đặng Thị Hương G vi phạm nghĩa vụ trả nợ, nên từ ngày 31/03/2007, Ngân hàng Đ đã chuyển toàn bộ số nợ vay còn thiếu sang nợ quá hạn. Tính đến ngày 15/06/2022, khách hàng: Văn Hữu D – Đặng Thị Hương G còn nợ các khoản sau: Vốn: 352.979.000VNĐ Lãi trong hạn: 207.516.667VNÐ Lãi quá hạn: 1.586.346.331 VNÐ. Tổng cộng:

2.146.841.998VNĐ (Bằng chữ: Hai tỷ một trăm bốn mươi sáu triệu tám trăm bốn mươi mốt nghìn chín trăm chín mươi tám đồng).

Quan điểm của Ngân Hàng về việc ông/bà Văn Hữu D – Đặng Thị Hương G vi phạm hợp đồng ký kết với Ngân Hàng M2 đã được Ngân hàng Đ2, tạo điều kiện để trả nợ cho Ngân Hàng nhưng ông/bà Văn Hữu D – Đặng Thị Hương G vẫn cố tình dây dưa, không trả nợ. Vậy Ngân hàng Đ đề nghị Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Đăk Lăk xử lý tài sản đảm bảo theo Hợp đồng thế chấp số K8085/BLBĐS ký ngày 15/12/2005 đối với tài sản là Bất động sản thuộc thửa đất số 210a, tờ bản đồ số 22, có diện tích 1.290m2 toạ lạc tại xã E, huyện K, tỉnh Đăk Lăk; theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: H083811 do UBND huyện K, tỉnh Đăk Lăk cấp ngày 23/12/1995, thuộc quyền sở hữu/sử dụng của ông/bà: Đặng H – Lê Thị H1 để đảm bảo tiếp tục thanh toán cho khoản vay của ông Văn Hữu D và bà Đặng Thị Hương G theo Hợp đồng tín dụng số K.1780/1 ký ngày 15/12/2005 (với số tiền tính đến ngày 15/06/2022 là 2.146.841.998VNĐ, trong đó: nợ gốc: 352.979.000VNĐ, lãi trong hạn: 207.516.667VNĐ, lãi quá hạn: 1.586.346.331VNĐ và tiền lãi phát sinh từ ngày 16/06/2022 đến ngày khách hàng Văn Hữu D – Đặng Thị Hương G thực trả hết nợ cho Ngân hàng Đ theo lãi suất quá hạn được quy định tại các hợp đồng vay vốn), đã được công nhận theo Quyết định công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự số 110/2008/QĐST-DS ngày 20/08/2008 của Toà án nhân dân huyện K, tỉnh Đăk Lăk.

*Người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn ông Đặng H và bà Lê Thị H1: Ông Đặng Anh M trình bày:

Tôi là con ruột, đồng thời là người được ông Đặng H và bà Lê Thị H1 uỷ quyền để tham gia tố tụng. Theo đơn khởi kiện của Ngân hàng thì ngày 15/12/2005 bố mẹ tôi là ông Đặng H và bà Lê Thị H1 có ký hợp đồng thế chấp tài sản số K8085/BLBĐS ký ngày 15/12/2005 đối với thửa đất số 210a, tờ bản đồ số 22, có diện tích 1290m2 toạ lạc tại xã E, huyện K, tỉnh Đăk Lăk; theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: H083811 do UBND huyện K, tỉnh Đăk Lăk cấp ngày 23/12/1995 mang tên Đặng H, Lê Thị H1 để đảm bảo cho khoản vay của ông Văn Hữu D và bà Đặng Thị Hương G tại Ngân hàng.

Tuy nhiên, bố mẹ tôi đều trình bày rõ là không nhớ chính xác nhưng chắc chắn cả hai đều không đến Ngân hàng ký và cũng không đến văn phòng công chứng để ký văn bản gì cả và cũng không biết bà G mang Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông H, bà H1 đi thế chấp tại Ngân hàng theo Hợp đồng thế chấp trên.

Đồng thời, sau khi Toà án nhân dân huyện K có Quyết định trưng cầu giám định số 02/2008 ngày 31/3/2008 của TAND huyện K và căn cứ vào Bản kết luận giám định số 2008/GĐ, ngày 07/4/2008 của Phòng KTHS Công an tỉnh Đắk Lắk thì đã có Kết luận giám định rõ:

“1. Dòng chữ viết: “Lê Thị H1” dưới mục: “Đại diện bên B” trong: “ Hợp đồng thế chấp tài sản - Để bảo lãnh vay vốn Ngân hàng Đ” số: K8085/BLBĐS ngày 14- 12- 2005, với chữ viết mẫu so sánh, người viết ký tên Lê Thị H1, là không phải do cùng một người viết ra.

Chữ ký đứng tên Đặng H dưới mục: “Đại diện bên B” trong: “Hợp đồng thế chấp tài sản - Để bảo lãnh vay vốn Ngân hàng Đ” số: K8085/BLBĐS, ngày 14- 12- 2005, với chữ ký mẫu so sánh, người ký đứng tên Đặng H, là do cùng một người ký ra.

Dòng chữ viết: “Đặng H” dưới mục: “ Đại diện bên B” trong: “Hợp đồng thế chấp tài sản - Để bảo lãnh vay vốn Ngân hàng Đ” số: K8085/BLBĐS ngày 14- 12- 2005, với chữ viết mẫu so sánh, người viết ký tên Đặng H, là do cùng một người viết ra”.

Do đó, Hợp đồng thế chấp tài sản để bảo lãnh vay vốn Ngân hàng Đ số K8085/BLBĐS, ngày 14/12/2005 là vô hiệu, vì tài sản mà ông Đặng H, bà Lê Thị H1 đã thế chấp để bảo lãnh thì chỉ có ông H ký và viết ra, còn bà Lê Thị H1 không hề ký và viết trong hợp đồng này. Trong khi đó, tài sản là quyền sử dụng đất này thời điểm này và cho đến nay vẫn là tài sản chung hợp nhất của bố mẹ tôi là ông Đặng H, bà Lê Thị H1 trong thời kỳ hôn nhân và đất này thì đang đứng tên hộ gia đình chứ không phải của riêng cá nhân ai.

Chính vì vậy, việc Ngân hàng Đ làm đơn khởi kiện yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm theo hợp đồng thế chấp K8085/BLBĐS để đảm bảo tiếp tục thanh toán cho khoản vay của ông Văn Hữu D và bà Đặng Thị Hương G thì tôi với tư cách người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn ông Đặng H và bà Lê Thị H1 có ý kiến là không đồng ý xử lý tài sản thế chấp. Tôi yêu cầu Ngân hàng phải trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H083811 do UBND huyện K, tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 23/12/1995, thuộc quyền sở hữu/sử dụng của ông/bà Đặng H, Lê Thị H1 của thửa đất số 210a, tờ bản đồ 22, có diện tích 1.290m2 toạ lạc tại xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk cho ông Đặng H, bà Lê Thị H1.

* Tại bản tự khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Đặng Thị Hương G đã trình bày:

Tôi là con ruột ông Đặng H, bà Lê Thị H1 và tôi là vợ của ông Văn Hữu D. Tôi đã nhận được Thông báo của Toà và biết được việc Ngân hàng kiện bố mẹ tôi là ông Đặng H, bà Lê Thị H1 để yêu cầu xử lý tài sản đảm bảo theo Hợp đồng thế chấp số K8085/BLBĐS ký ngày 15/12/2005 đối với tài sản là Bất động sản thuộc thửa đất số 210a, tờ bản đồ 22, có diện tích 1.290m2 toạ lạc tại xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H083811 do UBND huyện K, tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 23/12/1995, thuộc quyền sở hữu/sử dụng của ông/bà Đặng H, Lê Thị H1 để đảm bảo khoản vay của vợ chồng tôi ông Văn Hữu D và bà Đặng Thị Hương G theo hợp đồng tín dụng số K.1780/1 ký ngày 15/12/2005.

Khoảng năm 2004, Vợ chồng tôi có là thủ tục vay mượn tại Ngân hàng Á (A) ở đường L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk để vay số tiền khoảng 1.200.000.000 đồng (Một tỷ hai trăm triệu đồng) mục đích là để làm ăn, khi vay thì có thế chấp toàn bộ các lô đất của gia đình ở xã E, huyện K để bảo lãnh cho khoản vay. Sau đó, do nhu cầu cần thêm vốn làm ăn buôn bán kinh doanh nên tôi có nhờ bên dịch vụ làm để được vay thêm tiền nhằm có thêm vốn để kinh doanh, thì được giới thiệu qua Ngân hàng Đ để làm hồ sơ vay vốn. Tại Ngân hàng Đ thì tôi được cán bộ Ngân hàng tên là M1 (do thời gian đã lâu nên tôi không họ tên đầy đủ) hướng dẫn và làm tất cả các thủ tục hồ sơ để vay vốn để vay số tiền là 1.700.000.000 đồng (Một tỷ bảy trăm triệu đồng), khi vay thì vợ chồng tôi có ký và có thế chấp toàn bộ các lô đất đứng tên vợ chồng tôi ông Văn Hữu D và bà Đặng Thị Hương G ở xã E, huyện K để bảo lãnh cho khoản vay này.

Tuy nhiên, đối với Hợp đồng thế chấp số K8085/BLBĐS ký ngày 15/12/2005 đối với tài sản là Bất động sản thuộc thửa đất số 210a, tờ bản đồ 22, có diện tích 1.290m2 toạ lạc tại xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H083811 do UBND huyện K, tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 23/12/1995, thuộc quyền sở hữu/sử dụng của ông/bà Đặng H, Lê Thị H1 để đảm bảo khoản vay của vợ chồng chúng tôi là ông Văn Hữu D và bà Đặng Thị Hương G theo hợp đồng tín dụng số K.1780/1 ký ngày 15/12/2005 thì tôi xác định rõ và cho rằng bố mẹ tôi không hề lên Ngân hàng hoặc có mặt để ký vào Hợp đồng thế chấp số K8085/BLBĐS ký ngày 15/12/2005 và bố mẹ tôi là ông H, bà H1 cũng không biết việc thế chấp này tại Ngân hàng Đ. Chữ ký và chữ viết bên trong Hợp đồng thế chấp số K8085/BLBĐS ký ngày 15/12/2005 không phải là của bố mẹ tôi ký và viết mà có sự giả mạo, còn ai đã ký vào hợp đồng này thì tôi không biết, không rõ. Hồ sơ vay vốn là do tôi giao hồ sơ cho bên dịch vụ và Ngân hàng làm toàn bộ nên tôi không nắm được rõ về hồ sơ. Nay Ngân hàng khởi kiện thì ý kiến của tôi là không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng.

* Tại bản tự khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Văn Hữu D đã trình bày:

Tôi là con rể ông Đặng H, bà Lê Thị H1 và tôi là chồng của Đặng Thị Hương G. Tôi đã nhận được Thông báo của Toà và biết được việc Ngân hàng kiện bố mẹ tôi tôi là ông Đặng H, bà Lê Thị H1 để yêu cầu xử lý tài sản đảm bảo theo Hợp đồng thế chấp số K8085/BLBĐS ký ngày 15/12/2005 đối với tài sản là Bất động sản thuộc thửa đất số 210a, tờ bản đồ 22, có diện tích 1.290m2 toạ lạc tại xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H083811 do UBND huyện K, tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 23/12/1995, thuộc quyền sở hữu/sử dụng của ông/bà Đặng H, Lê Thị H1 để đảm bảo khoản vay của vợ chồng tôi ông Văn Hữu D và bà Đặng Thị Hương G theo hợp đồng tín dụng số K.1780/1 ký ngày 15/12/2005.

Tôi xin trình bày sự việc như sau: Khoảng năm 2004, vợ chồng tôi có là thủ tục vay mượn tại Ngân hàng Á (A) ở đường L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk để vay số tiền khoảng 1.200.000.000 đồng (Một tỷ hai trăm triệu đồng) mục đích là để làm ăn, khi vay thì có thế chấp toàn bộ các lô đất của gia đình ở xã E, huyện K để bảo lãnh cho khoản vay. Sau đó, do nhu cầu cần thêm vốn làm ăn buôn bán kinh doanh nên tôi có nhờ bên dịch vụ làm để được vay thêm tiền nhằm có thêm vốn để kinh doanh, thì được giới thiệu qua Ngân hàng Đ để làm hồ sơ vay vốn. Tại Ngân hàng Đ thì tôi được cán bộ Ngân hàng tên là M1 (do thời gian đã lâu nên tôi không họ tên đầy đủ) hướng dẫn và làm tất cả các thủ tục hồ sơ để vay vốn để vay số tiền là 1.700.000.000 đồng (Một tỷ bảy trăm triệu đồng), khi vay thì vợ chồng tôi có ký và có thế chấp toàn bộ các lô đất đứng tên vợ chồng tôi ông Văn Hữu D và bà Đặng Thị Hương G ở xã E, huyện K để bảo lãnh cho khoản vay này.

Tuy nhiên, đối với Hợp đồng thế chấp số K8085/BLBĐS ký ngày 15/12/2005 đối với tài sản là Bất động sản thuộc thửa đất số 210a, tờ bản đồ 22, có diện tích 1.290m2 toạ lạc tại xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H083811 do UBND huyện K, tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 23/12/1995, thuộc quyền sở hữu/sử dụng của ông/bà Đặng H, Lê Thị H1 để đảm bảo khoản vay của vợ chồng chúng tôi là ông Văn Hữu D và bà Đặng Thị Hương G theo hợp đồng tín dụng số K.1780/1 ký ngày 15/12/2005 thì tôi xác định rõ và cho rằng bố mẹ vợ tôi không hề lên Ngân hàng hoặc có mặt để ký vào Hợp đồng thế chấp số K8085/BLBĐS, ký ngày 15/12/2005 và cũng không biết việc thế chấp này tại Ngân hàng Đ.

Chữ ký và chữ viết bên trong Hợp đồng thế chấp số K8085/BLBĐS, ký ngày 15/12/2005 không phải là của bố, mẹ tôi ký và viết mà có sự giả mạo, còn ai đã ký vào hợp đồng này thì tôi không biết. Việc vay mượn tiền để buôn bán kinh doanh thì vợ tôi là người đứng ra làm chính còn tôi chỉ là phụ, khi vợ gọi lên Ngân hàng để ký thì tôi lên cùng với vợ tôi. Nay Ngân hàng khởi kiện thì ý kiến của tôi là không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng.

Sau khi thụ lý vụ án, Toà án đã cho các đương sự làm bản tự khai và tiến hành công khai chứng cứ và hoà giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Tuy nhiên, các đương sự không thống nhất được việc giải quyết vụ án. Do vậy, Tòa án tiến hành thực hiện các thủ tục theo quy định của pháp luật và căn cứ Điều 220 của Bộ luật Tố tụng dân sự đưa vụ án ra xét xử.

Tại phiên tòa, đại diện theo uỷ quyền lại của Ngân hàng TMCP Đ – CN Đăk Lăk ông Hoàng Tuấn P đề nghị Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Đăk Lăk xử lý tài sản đảm bảo theo Hợp đồng thế chấp số K8085/BLBĐS ký ngày 15/12/2005 đối với tài sản là Bất động sản thuộc thửa đất số 210a, tờ bản đồ số 22, có diện tích 1.290m2 toạ lạc tại xã E, huyện K, tỉnh Đăk Lăk; theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: H083811 do UBND huyện K, Tỉnh Đăk Lăk cấp ngày 23/12/1995, thuộc quyền sở hữu/sử dụng của Ông/Bà: Đ – Lê Thị H1 để đảm bảo tiếp tục thanh toán cho khoản vay của ông Văn Hữu D và bà Đặng Thị Hương G theo hợp đồng tín dụng số K.1780/1 ký ngày 15/12/2005 (với tổng số tiền tính đến ngày 15/06/2023) là 2.217.702.532 đồng, trong đó: nợ gốc: 352.979.000đồng, lãi trong hạn: 207.516.667đồng, lãi quá hạn:1.657.206.864đồng và tiền lãi phát sinh từ ngày 16/06/2023 đến ngày khách hàng: Văn Hữu D – Đặng Thị Hương G thực trả hết nợ cho Ngân hàng Đ theo lãi suất quá hạn được quy định tại các hợp đồng vay vốn).

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 28/2023/DS-ST, ngày 15 tháng 6 năm 2023 của Toà án nhân dân huyện K đã quyết định:

Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; các điểm g khoản 1 Điều 217, Điều 218, Điều 219, Điều 244, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ Điều 122, Điều 129, Điều 213 của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 29, Điều 35 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Căn cứ khoản 3 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1.1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ xử lý tài sản đảm bảo theo Hợp đồng thế chấp số K8085/BLBĐS ký ngày 15/12/2005 đối với tài sản là Bất động sản thuộc thửa đất số 210a, tờ bản đồ số 22, có diện tích 1.290m2 toạ lạc tại xã E, huyện K, tỉnh Đăk Lăk; theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: H083811 do UBND huyện K, tỉnh Đăk Lăk cấp ngày 23/12/1995, thuộc quyền sở hữu/sử dụng của ông/Bà: Đặng H – Lê Thị H1 để đảm bảo cho khoản vay của ông Văn Hữu D và Bà Đặng Thị Hương G theo hợp đồng tín dụng số K.1780/1 ký ngày 15/12/2005.

1.2. Đình chỉ đối với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ về việc xử lý khoản vay của Ông Văn Hữu D và bà Đặng Thị Hương G theo Hợp đồng tín dụng số K.1780/1 ký ngày 15/12/2005 (với tổng số tiền tính đến ngày 15/06/2023) là 2.217.702.532 đồng, trong đó: nợ gốc: 352.979.000đồng, lãi trong hạn:

207.516.667đồng, lãi quá hạn:1.657.206.864đồng, và tiền lãi phát sinh từ ngày 16/06/2023 đến ngày khách hàng Văn Hữu D – Đặng Thị Hương G thực trả hết nợ cho Ngân hàng Đ theo lãi suất quá hạn được quy định tại các hợp đồng vay vốn) 1.3. Trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H083811 do UBND huyện K, tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 23/12/1995 cho ông/bà Đặng H, Lê Thị H1 của Thửa đất số 210a, tờ bản đồ 22, có diện tích 1.290m2 toạ lạc tại xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk cho ông Đặng H, bà Lê Thị H1.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, tuyên về quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm ngày 29/06/2023 Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ kháng cáo Bản án dân sự sơ thẩm số 28/2023/DS-ST, ngày 15 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Đắk Lắk với nội dung:

1.Thu hồi quyết định của Tòa án nhân dân huyện K số: 28/2023/DSST, ngày 15/6/2023 của Tòa án Nhân dân huyện K để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Ngân hàng Đ.

  1. Ngân hàng TMCP Đ là người thứ ba ngay tình theo quy định tại khoản 2, Điều 133 của Bộ luật Dân sự 2015 và Hợp đồng thế chấp số K8085/BLBĐS ký ngày 15/12/2005 giữa Ngân hàng TMCP Đ và ông Đặng H không vô hiệu toàn phần. Tài sản đảm bảo là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H083811 do UBND huyện K, tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 23/12/1995 mang tên ông Đặng H không phải “đứng tên hộ gia đình” theo như nhận định của Tòa án, phải được dùng để xử lý, thu hồi nợ vay cho Ngân hàng TMCP Đ theo khoản 7 Điều 323 của Bộ luật dân sự 2015.
  2. Phòng Công chứng số II tỉnh Đắk Lắk phải được triệu tập, đối chất v/v thực hiện ký hợp đồng thế chấp nêu trên. Trường hợp Phòng Công chứng sai sót đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét, giải quyết và hướng dẫn Ngân hàng yêu cầu bồi thường thiệt hại khi xảy ra cho Ngân hàng.

Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Các đương sự trong vụ án và Hội đồng xét xử phúc thẩm đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung:

Qua phân tích đánh giá các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày của các bên đương sự, đại diện Viện kiểm sát cho rằng kháng cáo của Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ là không có cơ sở nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 28/2023/DS-ST, ngày 15 tháng 6 năm 2023 của Toà án nhân dân huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu được thu thập có trong hồ sơ vụ án, kết quả tranh luận tại phiên tòa, lời trình bày của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của nguyên đơn làm trong hạn luật định và đã nộp tạm ứng án phí phúc thẩm nên được xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về nội dung: Xét nội dung kháng cáo của nguyên đơn, Hội đồng xét xử thấy rằng:

[2.1] Hợp đồng thế chấp số K8085/BLBĐS ký ngày 15/12/2005 đối với tài sản bảo đảm là thửa đất số 210a, tờ bản đồ số 22, có diện tích 1.290m2 toạ lạc tại xã E, huyện K, tỉnh Đăk Lăk; theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: H083811 do UBND huyện K, tỉnh Đăk Lăk cấp cho ông Đặng H ngày 23/12/1995 để đảm bảo cho khoản vay của ông Văn Hữu D và Bà Đặng Thị Hương G theo hợp đồng tín dụng số K.1780/1 ký ngày 15/12/2005.

Qua xem xét hồ sơ, tài liệu đăng ký quyền sử dụng đất do UBND huyện K cung cấp thể hiện tại “Đơn xin đăng ký và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 20/3/1995” của ông Đặng H kê khai “vợ hoặc chồng là Lê Thị H1” và “số nhân khẩu trong hộ 05”.

Như vậy quyền sử dụng đất tại thửa 210a tờ bản đồ số 22, có diện tích 1.290m2, toạ lạc tại xã E, huyện K, tỉnh Đăk Lăk là tài sản chung của ông Đặng H, bà Lê Thị H1 trong thời kỳ hôn nhân. Việc thế chấp quyền sử dụng đất nêu trên phải được các thành viên trong hộ ông Đặng H xác lập. Mặt khác, Bản kết luận giám định số 2008/GĐ, ngày 07/4/2008 của Phòng KTHS Công an tỉnh Đắk Lắk xác định rõ chữ viết trong “ Hợp đồng thế chấp tài sản- Để bảo lãnh vay vốn Ngân hàng Đ” số: K8085/BLBĐS, ngày 14- 12- 2005 không phải là của bà Lê Thị H1. Như vậy, chỉ có một mình ông Đặng H ký vào hợp đồng thế chấp, còn bà Lê Thị H1 không xác lập hợp đồng thế chấp này. Do đó, có căn cứ để xác định Hợp đồng thế chấp tài sản để bảo lãnh vay vốn Ngân hàng Đ số K8085/BLBĐS, ngày 14/12/2005 được công chứng ngày 15/12/2005 thiếu thành viên hộ gia đình. Do đó, kháng cáo của Ngân hàng TMCP Đ cho rằng thửa đất số 210a nêu trên không phải “đứng tên hộ gia đình” và phải được dùng để xử lý, thu hồi nợ vay cho Ngân hàng Đ là không có cơ sở chấp nhận.

[2.2] Đối với nội dung nguyên đơn kháng cáo yêu cầu triệu tập Văn phòng Công chứng số II tỉnh Đắk Lắk để đối chất về việc thực hiện ký hợp đồng thế chấp nêu trên, trường hợp Phòng Công chứng sai sót đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét, giải quyết và hướng dẫn Ngân hàng về việc yêu cầu bồi thường thiệt hại khi xảy ra cho Ngân hàng. Xét thấy việc Tòa án cấp sơ thẩm không đưa Văn phòng công chứng tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là thiếu sót, cần rút kinh nghiệm. Về phần quyết định của bản án sơ thẩm tuyên trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chưa đầy đủ, mà cần bổ sung Buộc Ngân hàng TMCP Đ trả lại cho ông Đặng H, bà Lê Thị H1 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H083811 do UBND huyện K, tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 23/12/1995 để đảm bảo việc thi hành án.

Tuy nhiên về nội dung này, quá trình tham gia tố tụng, các bên đương sự không yêu cầu triệu tập và cũng không có ý kiến gì. Nội dung kháng cáo trên của nguyên đơn là vượt quá yêu cầu khởi kiện nên không có căn cứ để xem xét. Trường hợp Ngân hàng TMCP Đ nhận thấy quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm thì có quyền khởi kiện vụ án dân sự khác.

[2.3] Quá trình giải quyết vụ án, đã xác định tranh chấp hợp đồng tín dụng số K.1780/1 ký ngày 15/12/2005 giữa Ngân hàng TMCP Đ và ông Văn Hữu D và bà Đặng Thị Hương G đã được Tòa án nhân dân huyện K giải quyết bằng Quyết định công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự số 110/2008/QĐST-DS, ngày 20/08/2008 của Toà án nhân dân huyện K, tỉnh Đắk Lắk (Quyết định này đã có hiệu lực pháp luật và đã được thi hành). Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đình chỉ một phần đối yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về tranh chấp hợp đồng tín dụng là đúng quy định tại điểm c khoản 1 Điều 192 và điểm g, khoản 1 Điều 217 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Từ những phân tích trên xét thấy không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn Ngân hàng TMCP Đ mà cần giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 28/2023/DS-ST, ngày 15 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Đắk Lắk [3] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên Ngân hàng TMCP Đ phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Không chấp nhận kháng cáo của Ngân hàng TMCP Đ. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 28/2023/DS-ST, ngày 15 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

[2] Áp dụng khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; các điểm g khoản 1 Điều 217, Điều 218, Điều 219, Điều 244, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Áp dụng Điều 122, Điều 129, Điều 213 của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 29, Điều 35 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Áp dụng khoản 3 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

  1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ xử lý tài sản đảm bảo theo Hợp đồng thế chấp số K8085/BLBĐS ký ngày 15/12/2005 đối với tài sản là Bất động sản thuộc thửa đất số 210a, tờ bản đồ số 22, có diện tích 1.290m2 toạ lạc tại xã E, huyện K, tỉnh Đăk Lăk; theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: H083811 do UBND huyện K, tỉnh Đăk Lăk cấp ngày 23/12/1995, thuộc quyền sở hữu/sử dụng của ông/Bà: Đặng H – Lê Thị H1 để đảm bảo cho khoản vay của ông Văn Hữu D và Bà Đặng Thị Hương G theo hợp đồng tín dụng số K.1780/1 ký ngày 15/12/2005.
  2. Đình chỉ đối với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ về việc xử lý khoản vay của Ông Văn Hữu D và bà Đặng Thị Hương G theo Hợp đồng tín dụng số K.1780/1 ký ngày 15/12/2005 (với tổng số tiền tính đến ngày 15/06/2023) là 2.217.702.532 đồng, trong đó: nợ gốc: 352.979.000 đồng, lãi trong hạn: 207.516.667 đồng, lãi quá hạn: 1.657.206.864 đồng, và tiền lãi phát sinh từ ngày 16/06/2023 đến ngày khách hàng Văn Hữu D – Đặng Thị Hương G thực trả hết nợ cho Ngân hàng Đ theo lãi suất quá hạn được quy định tại các hợp đồng vay vốn) 3. Buộc Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H083811 do UBND huyện K, tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 23/12/1995 cho ông/bà Đặng H, Lê Thị H1 của thửa đất số 210a, tờ bản đồ 22, có diện tích 1.290m2 toạ lạc tại xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk cho ông Đặng H, bà Lê Thị H1.

[3] Về chi phí tố tụng: Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ có nghĩa vụ chịu số tiền 2.500.000.000 đồng (Hai triệu năm trăm nghìn đồng) tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, Ngân hàng đã nộp xong.

[4] Về án phí:

[4.1] Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc nguyên đơn Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm, khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí mà Ngân hàng đã nộp theo biên lai thu số AA/2021/0016324, ngày 06 tháng 7 năm 2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

[4.2] Về án phí dân sự phúc thẩm: Buộc nguyên đơn Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự phúc thẩm, khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí mà Ngân hàng đã nộp theo biên lai thu số AA/2022/0003229, ngày 20 tháng 7 năm 2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nơi nhận:

TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM

- VKSND tỉnh Đắk Lắk (02);

THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

- TAND huyện K; 

 

- Chi cục THADS huyện K; 

 

- Đương sự;

 

- Lưu hồ sơ.

Nguyễn Duy Thuấn

2. Bản án về tranh chấp hợp đồng thuê mặt bằng số 03/2024/KDTM-PT

https://docs.google.com/document/d/1SGDm1yp6-E-NJQr6v7XKyEsKboP7OcZk/edit?usp=sharing&ouid=102047713431837797912&rtpof=true&sd=true

 

TÒA ÁN NHÂN DÂN

 

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM                                                 

THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

 

Độc lập - Tự do – Hạnh phúc

Bản án số: 03/2024/KDTM-PT

Ngày: 22/01/2024

V/v “Tranh chấp hợp

 đồng thuê mặt bằng”

 NHÂN DANH 

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

 TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

 - Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có: 

Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Hoài Sơn

Các Thẩm phán:                         Ông Cao Văn Hiếu

                                                    Bà Mai Vương Thảo

- Thư ký phiên tòa: Nguyễn Thị Bình - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk. 

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng tham gia phiên tòa: Bà Đặng Ngọc Hoài Linh - Kiểm sát viên.

Ngày 22 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 26/2023/TLPT-KDTM ngày 03/11/2023, về việc“Tranh chấp hợp đồng thuê mặt bằng”.

Do Bản án kinh doanh thương mại số 40/2023/KDTM-ST ngày 30/9/2023 của Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 224/2023/QĐPT-KDTM ngày 05/12/2023; Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 225/2023/QĐPT-KDTM ngày 09/12/2023; Thông báo thay đổi thời gian xét xử số 379/TB-TA ngày 02/01/2024; Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 27/2024/QĐ-TA ngày 17/01/2024 giữa các đương sự:

  1. Nguyên đơnCông ty TNHH Du lịch H.I.S S. Địa chỉ: Quốc lộ 14B, xã H, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Người đại diện theo pháp luật: Ông TABUCHI J - Chức vụ: Tổng giám đốc.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn H - sinh năm: 2000; Địa chỉ: Số 147 đường T, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, (theo giấy ủy quyền ngày 28/8/2023). Có mặt.

Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Tấn K - Luật sư của Chi nhánh Công ty Luật TNHH P tại thành phố Đà Nẵng; Địa chỉ: Số 147 đường T, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.

  1. Bị đơnCông ty Cổ phần L Đà Nẵng; Địa chỉ: Số 16 đường L, phường Thạch Thang, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Tấn C - Chức vụ: Tổng giám đốc.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Kiều Việt K - Chức vụ: Phó tổng giám đốc; Địa chỉ: Số 16 đường L, phường Thạch Thang, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, (theo Văn bản ủy quyền ngày 04/11/2022). Có mặt.

Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn: Bà Đoàn Thị Yến V - Luật sư của Văn phòng luật sư Đỗ Pháp, thành phố Đà Nẵng; Địa chỉ: Số 69 đường N, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

  1. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty TNHH Q; Địa chỉ: Quốc lộ 14B, xã Hòa Nhơn, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Người đại diện theo pháp luật: Ông - Chức vụ: Tổng giám đốc.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị H; Địa chỉ: Số 147 đường T, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

  1. Người kháng cáo: Bị đơn Công ty cổ phần L Đà Nẵng.
  2. Người kháng nghị: Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Bản án sơ thẩm nội dung vụ án như sau:

Trong đơn khởi kiện ngày 14/4/2022 và tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:

Ngày 26/4/2017, Công ty TNHH Du lịch H.I.S S (sau đây gọi tắt là H.I.S S) và Công ty Cổ phần L Đà Nẵng (sau đây gọi tắt là Công ty L Đà Nẵng) đã ký kết Hợp đồng thuê mặt bằng số 09/2017/HĐTTTM- THOME (Hợp đồng). Theo đó, HIS S đã thuê mặt bằng để làm địa điểm kinh doanh ở tầng 5 thuộc Tòa nhà F.Home Đà Nẵng có địa chỉ tại 16 L, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Theo thỏa thuận trong hợp đồng, H.I.S S đã thực hiện nghĩa vụ đặt cọc với số tiền là 2.288.832.000 đồng cho Dana F với phần diện tích thuê có thời hạn 05 năm (60 tháng) bắt đầu từ 01/6/2017 đến 31/5/2022.

Từ cuối năm 2019 và cả năm 2020, ngành du lịch thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đều không tránh khỏi sự ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19, trong đó có H.I.S S. Hoạt động kinh doanh chính của H.I.S S là du lịch lữ hành quốc tế đã phải chịu ảnh hưởng trực tiếp buộc phải dùng hoạt động. Vì thế, tại cuộc họp giữa Ban giám đốc hai bên vào ngày 21/11/2020, Công ty L Đà Nẵng đồng ý để H.I.S S chấm dứt hợp đồng thuê trước thời hạn và không phát sinh chi phí thuê kể từ ngày 01/12/2020.

Theo quy định tại Điều 8.2 Hợp đồng: "Trong vòng 30 ngày kể từ ngày phần diện tích thuê được Bên Thuê bàn giao lại cho Bên Cho Thuê phù hợp với quy định tại Hợp đồng, Bên Cho Thuê sẽ hoàn trả cho Bên Thuê số tiền đặt cọc mà Bên Thuê thực tế chuyển cho Bên Cho Thuê. Trường hợp Bên Cho Thuê chậm hoàn trả tiền đặt cọc cho Bên Thuê theo quy định tại điều này, Bên Cho Thuê có trách nhiệm trả cho Bên Thuê một khoản tiền lãi tính theo Lãi suất quả hạn đối với khoản tiền chậm trả cho khoảng thời gian chậm trả". Tuy nhiên, đến thời điểm hiện nay, mặc dù H.I.S Sđã nhiều lần (Lần 1 vào ngày 02/12/2020; Lần 2 vào ngày 15/12/2020; Lần 3 vào ngày 01/3/2021; Lần 4 vào ngày 12/3/2021; Lần 5 vào ngày 19/3/2021) yêu cầu Công ty Lương thực Đà Nẵng thanh toán lại khoản tiền đặt cọc và tạo điều kiện cho H.I.S Sông Hàn di dời những tài sản hợp pháp còn lại tại FHome nhưng chưa nhận được thiện chí giải quyết. Công ty Lương thực Đà Nẵng vẫn im lặng không phản hồi. Như vậy, tổng số tiền cọc mà Công ty L Đà Nẵng có nghĩa vụ hoàn trả lại cho H.I.S S tạm tính đến thời điểm hiện nay là 3.298.478.380 đồng, trong đó: tiền nợ cọc gốc là 2.288.832.000 đồng và tiền lãi phát sinh do chậm thanh toán tạm tính từ ngày 01/12/2020 đến ngày 30/9/2023 là 1.009.478.380 đồng.

Trên tinh thần thiện chí, H.I.S S đã nhờ đơn vị trung gian giải quyết tranh chấp này bằng con đường thương lượng nhưng sau nhiều lần yêu cầu Công ty L Đà Nẵng thực hiện nghĩa vụ hoàn trả tiền cọc cho đến nay Công ty L Đà Nẵng vẫn cố tình trốn tránh, không phản hồi cũng như không thực hiện nghĩa vụ của mình mặc dù Công ty L Đà Nẵng hoàn toàn có đủ điều kiện, khả năng và trách nhiệm thanh toán.

Vì vậy, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp Công ty H.I.S S khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết :

+ Buộc Công ty L Đà Nẵng có nghĩa vụ thanh toán số tiền đặt cọc 2.288.832.000 đồng và tiền lãi phát sinh do chậm thanh toán tạm tính từ ngày 01/12/2020 đến ngày 30/9/2023 là 1.009.478.380 đồng cho Công ty H.I.S S.

+ Yêu cầu tuyên bố Hợp đồng thuê mặt bằng số 09/2017/HĐTTTM - FHOME ngày 26/4/2017 chấm dứt kể từ ngày 01/12/2020.

Và nguyên đơn rút yêu cầu buộc bị đơn phải trả lại tài sản hiện đang còn tầng 5 thuộc Tòa nhà F.Home Đà Nẵng có địa chỉ tại 16 L, quận Hải Châu, thành Đà Nẵng.

* Đại diện theo ủy quyền của Công ty Cổ phần L t Đà Nẵng trình bày:

Căn cứ Hợp đồng số 09/2017/HĐTTTM-FHOME (dưới đây gọi là Hợp đồng), được ký kết giữa Công ty L Đà Nẵng và H.I.S S (dưới đây gọi là Bên cho thuê Công ty L Đà Nẵng và bên thuê H.I.S S) ngày 26/4/2017 thì bên thuê đồng ý thuê phần diện tích 524 m2 (phần này được ghi nhận tại phụ lục 1 đính kèm hợp đồng cho thuê mặt bằng số 09/2017/HĐTTTM-FHOME). Tại Điều 7.1.3 của Hợp đồng nêu rõ “năm thứ 2, năm thứ 3 và năm thứ 4: Bên thuê sẽ thanh toán tiền thuê cho Bên cho thuê mỗi 03 tháng/lần trong vòng 7 ngày đầu tiên của đợt thanh toán và sau khi đã nhận được hoá đơn GTGT từ bên cho thuê.", theo đây thì đợt thanh toán của Hợp đồng được xác định là từ ngày 01/11/2020 đến ngày 31/01/2021. Ngày 05/11/2020 Bên cho thuê đã có thông báo gửi Bên thuê về việc thanh toán tiền thuê văn phòng cho đợt thanh toán 01/11/2020 đến ngày 31/01/2021, ngày 09/11/2020 Bên cho thuê đã xuất hoá đơn GTGT theo hợp đồng cho đợt thanh toán 01/11/2020 đến ngày 31/01/2021, ngày 15/11/2020 Bên cho thuê tiếp tục gửi thông báo lần 2 cho Bên thuê yêu cầu thanh toán tiền thuê nhưng Bên thuê vẫn không thanh toán cho Bên cho thuê. Ngày 21/11/2020 đại diện hai bên có cuộc họp trực tuyến để bàn bạc về hợp đồng thuê, H.I.S S có đề cập việc đơn phương chấm dứt Hợp đồng, lúc này Công ty L Đà Nẵng có bàn đến phương án đồng ý cho H.I.S S chấm dứt hợp đồng, nếu H.I.S S trả lại các khoản đầu tư mặt bằng, tiền giảm trừ khi H.I.S S thực hiện đúng thời hạn thuê 05 năm và 3 tháng tiền thuê do lỗi chấm dứt Hợp đồng trước thời hạn. H.I.S S không đồng ý với đề nghị của Công ty L Đà Nẵng nên cuộc họp kết thúc và không có biên bản. Vậy vẫn chưa có được sự thống nhất về việc Công ty Lương thực Đà Nẵng đồng ý cho H.I.S S chấm dứt Hợp đồng, H.I.S S vẫn không thanh toán tiền thuê đợt thanh toán ngày 01/11/2020 đến ngày 31/01/2021 cho Công ty L Đà Nẵng. Tiếp đến ngày 25/11/2020 Bên cho thuê có thông báo lần 3 gửi Bên thuê yêu cầu thanh toán tiền thuê nhưng Bên thuê vẫn không thanh toán.

Ngày 30/11/2020 H.I.S S gửi công văn cho Công ty L Đà Nẵng thông báo chấm dứt Hợp đồng thuê, theo thông báo này thì ngày H.I.S S đề xuất ngày kinh doanh cuối cùng của H.I.S S tại địa điểm thuê là ngày 30/11/2020. Ngày 02/12/2020 H.I.S S có công văn số 02122020/H.I.S gửi Công ty L Đà Nẵng đề nghị hỗ trợ di dời tài sản để hoàn trả mặt bằng. Sau khi nhận các thông báo từ H.I.S S, phía Công ty L Đà Nẵng chưa đồng ý cho H.I.S S chấm dứt hợp đồng và cũng chưa đồng ý cho H.I.S S di dời tài sản ra khỏi địa điểm thuê vì hai bên chưa thống nhất được việc chấm dứt hợp đồng thuê và thanh toán các chi phí khi hợp đồng chấm dứt.

Tiếp đó, ngày 15/12/2020 H.I.S S lại tiếp tục có công văn số 15122020/CV- H.I.S gửi Công ty L Đà Nẵng với nội dung yêu cầu Công ty L Đà Nẵng không được ngăn cản họ di dời tài sản ra ngoài. Tại thời điểm này các bên vẫn chưa thống nhất được việc chấm dứt Hợp đồng và các chi phí cần thanh toán, nhưng H.I.S S vẫn chấm dứt việc sử dụng mặt bằng thuê, khoá cửa khu vực thuê từ ngày 15/12/2020. Như vậy, H.I.S S đã đơn phương chấm dứt hợp đồng và vi phạm cam kết mà hai bên đã thoả thuận trong Hợp đồng.

Chính vì các lẽ trên, nên H.I.S S không được hoàn trả lại toàn bộ số tiền đặt cọc mà còn phải chịu phạt vi phạm và bồi thường cho Công ty L Đà Nẵng theo các nội dung dưới đây:

  1. Căn cứ điều 14.1 của Hợp đồng “Bên Thuê bị coi là vi phạm Hợp đồng thuê nếu Bên Thuê trong vòng 20 ngày sau khi đã nhận được văn bản thông báo nhắc nhở từ Bên cho thuê, vẫn không tiếp tục thực hiện nghĩa vụ thanh toán quy định trong Hợp đồng thuê".

Theo các tài liệu và thông tin nêu trên, Công ty L Đà Nẵng đã có thông báo gửi H.I.S S yêu cầu thanh toán tiền thuê theo cam kết tại Hợp đồng, thông báo được gửi 03 lần, Bên cho thuê cũng đã xuất hoá đơn GTGT và gửi cho Bên thuê, nhưng quá thời hạn Bên thuê vẫn không thanh toán. Vì vậy Bên thuê đã vi phạm quy định thanh toán tại điều 14.1 của hợp đồng.

Căn cứ điều 15.4 của Hợp đồng "Trong trường hợp Hợp đồng Thuê chấm dứt do Bên Thuê vi phạm Hợp đồng Thuê theo quy định tại Điều 14 thì:

1. Bên Cho Thuê được giữ lại và sử dụng toàn bộ Tiền Đặt Cọc Thuê hoặc yêu câu ngân hàng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo Thư bảo lãnh (nếu có);

2. Bên Thuê có trách nhiệm trả cho Bên Cho Thuê khoản tiền lãi tính theo Lãi suất quá hạn đối với khoản chậm thanh toán (nếu có) cho khoảng thời gian tính từ ngày đến hạn thanh toán cho đến ngày Bên Thuê thực tế thanh toán đầy đủ các khoản tiền đó;

Bên Thuê không những không thanh toán tiền thuê mà còn gửi thông báo chấm dứt hợp đồng thuê, nên Bên Cho Thuê áp dụng quy định tại điều 15.4 của Hợp đồng, giữ lại toàn bộ tiền cọc mà Bên thuê đã đặt cọc là 2.288.833.000 đồng. Ngoài ra, bên thuê phải thanh toán cho Bên cho thuê số tiền thuê trong thời hạn từ ngày 01/11/2020 đến ngày 31/01/2021 là 805.284.480 đồng, đồng thời bên thuê tính lãi suất phát sinh trên khoản tiền thuê theo đợt thanh toán ngày 01/11/2020 đến ngày 31/1/2021 như sau (Lãi suất TGTK kỳ hạn 12 tháng trả lãi cuối kỳ của SHB ngày 25/12): tiền lãi tạm tính từ ngày 25/11/2020 đến ngày 18/9/2023 là 226.803.410 đồng.

3. Bên thuê cho rằng việc chấm dứt Hợp đồng của Bên thuê là do dịch bệnh Covid 19, căn cứ các quy định tại Hợp đồng thì dịch Covid 19 không nằm trong các lý do chấm dứt Hợp đồng được hai bên thoả thuận, nên áp dụng quy định tại điểm 2, khoản 15.2 tại điều 15 của Hợp đồng: "Một trong Các Bên đơn phương chấm dứt Hợp đồng Thuê này trước Thời Hạn, bởi các lý do khác ngoài các điều khoản của Hợp Đồng Thuê, bằng cách gửi thông báo bằng văn bản trước ít nhất ba (3) tháng cho bên kia và trả cho bên kia một khoản bồi thường tương đương ba (3) tháng Tiền Thuê và Phí dịch vụ (tính theo tiền thuê và phí dịch vụ trung bình trong suốt thời hạn của Hợp đồng thuê hoặc tiền thuê và phí dịch vụ tại thời điểm thanh lý hợp đồng thuê, tùy vào giá trị nào cao hơn) (“Khoản Bồi Thường”). Trường hợp một bên vi phạm nghĩa vụ thông báo trước ba (03) tháng, ngoài khoản bồi thường nếu tại Điều này, Bên vi phạm sẽ phải trả thêm cho Bên còn lại một khoản tiền bằng với khoản bồi thường.” Theo trên, H.I.S S phải trả cho Công ty L Đà Nẵng thêm một khoản tiền bồi thường do đơn phương chấm dứt hợp đồng trước thời hạn và vi phạm điều khoản về nghĩa vụ thông báo (trước 3 tháng), gồm: 3 tháng tiền thuê là + phí dịch vụ + 3 tháng tiền thuê phạt vi phạm gồm 1.006.605.600 + 1.006.605.600 = 2.013.211.200 đồng Tổng số tiền mà H.I.S S bồi thường cho Công ty L Đà Nẵng khi đơn phương chấm dứt hợp đồng là : 2.013.211.200 = 2.195.448.181 đồng.

Vậy tổng số tiền mà H.I.S phải chi trả và bồi thường trong trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng và vi phạm thời hạn báo trước là:

- Mất toàn bộ số tiền đặt cọc 2.288.832.000 đồng.

- Thanh toán: tiền phạt vi phạm khi đơn phương chấm dứt hợp đồng 2.013.211.200 đồng + tiền thuê chưa thanh toán 805.284.480 đồng + tiền lãi phát sinh đến ngày 9/3/2023 là 226.803.410 đồng = 3.045.299.090 đồng.

Vì lý do trên nên Công ty L Đà Nẵng không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và đề nghị Toà án xem xét không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc hoàn trả tiền đặt cọc, đồng thời buộc nguyên đơn phải bồi thường vi phạm hợp đồng và thanh toán tiền thuê mặt bằng cho bị đơn khoản tiền 3.045.299.090 đồng theo quy định tại Hợp đồng cho thuê mặt bằng 09/2017/HĐTTTM- FHOME.

Người có quyền và nghĩa vụ liên quan là Công ty TNHH Quốc tế M có đơn trình bày:

Công ty M được thành lập hợp pháp vào năm 2017, hoạt động độc lập, hoạch toán thuế độc lập. Giữa Công ty TNHH Quốc tế M và Công ty L Đà Nẵng có thỏa thuận độc lập thuê mặt bằng và không liên quan gì đến hợp đồng thuê mặt bằng cũng như các khoản tiền cọc thuê giữa Công ty TNHH Du lịch H.I.S S với Dana F và Công ty TNHH Quốc tế M từ chối tham gia tố tụng tại Tòa án.

* Với nội dung nêu trên tại Bản án kinh doanh thương mại số 40/2021/KDTM-ST ngày 30/9/2023 của Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đã xử và quyết định:

Căn cứ khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm g khoản 1 Điều 40 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; các Điều 117,119, 401, 420, 472 và 482 của Bộ luật dân sự 2005Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử:

  1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty TNHH Du lịch H.I.S S với bị đơn Công ty Cổ phần L Đà Nẵng về việc“Tranh chấp hợp đồng thuê mặt bằng ”Tuyên chấm dứt Hợp đồng thuê mặt bằng số 09/2017/HĐTTTM-FHOME ngày 26/4/2017 tại địa điểm kinh doanh tầng 5 tòa nhà F.Home - số 16 L, phường Thạch Thang, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.
  2. Buộc Công ty Cổ phần L Đà Nẵng phải hoàn trả lại 2.288.832.000đ và lãi phát sinh kể từ ngày 31/12/2020 đến thời điểm xét xử là ngày 30/9/2023 là 1.009.478.380 đồng Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
  3. Công ty Cổ phần L Đà Nẵng phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm là 97.966.000 đồng. Hoàn trả cho Công ty TNHH Du lịch H.I.S S số tiền tạm ứng án phí là 44.142.935 đồng đã nộp theo biên lai số 0006232 ngày 12/10/2022 của Chi cục Thi hành án quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo và nghĩa vụ thi hành án.

* Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 26/10/2023 Công ty Cổ phần L Đà Nẵng kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét, xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm.

Ngày 30/10/2023, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng có Quyết định kháng nghị số 12/QĐ-VKS-KDTM đề nghị hủy toàn bộ Bản án kinh doanh thương mại số 40/2023/KDTM-ST ngày 30/9/2023 của Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.

* Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 22/01/2024, đại diện theo ủy quyền của Công ty TNHH Du lịch H.I.S S và Công ty Cổ phần L Đà Nẵng đã thỏa thuận được toàn bộ về việc giải quyết vụ án như sau:

- Chấm dứt Hợp đồng thuê mặt bằng số 09/2017/HĐTTTM-FHOME ngày 26/4/2017 giữa Công ty TNHH Du lịch H.I.S S và Công ty Cổ phần L Đà Nẵng tại địa điểm kinh doanh tầng 5 Tòa nhà FHome - số 16 Lý Thường Kiệt, phường Thạch Thang, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.

- Công ty Cổ phần L Đà Nẵng trả lại Công ty TNHH Du lịch H.I.S Sông Hàn Việt Nam số tiền 1.300.000.000 đồng.

* Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát thành phố Đà Nẵng phát biểu:

+ Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm là đảm bảo các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

+ Về quan điểm giải quyết vụ án: Trên cơ sở kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng thì tại phiên tòa các đương sự đã thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án. Căn cứ Điều 300, khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Sửa Bản án kinh doanh thương mại số 40/2023/KDTM-ST ngày 30/9/2023 của Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự như sau:

- Chấm dứt Hợp đồng thuê mặt bằng số 09/2017/HĐTTTM-FHOME ngày 26/4/2017 giữa Công ty TNHH Du lịch H.I.S S và Công ty Cổ phần L Đà Nẵng tại địa điểm kinh doanh tầng 5 Tòa nhà FHome - số 16 L, phường Thạch Thang, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.

- Công ty Cổ phần Lương thực Đà Nẵng trả lại Công ty TNHH Du lịch H.I.S L số tiền 1.300.000.000 đồng.

- Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm và phúc thẩm: Các đương sự phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; sau khi đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng phát biểu ý kiến, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa phúc thẩm người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn là bà Đoàn Thị Yến V; Bà Nguyễn Thị H là người đại diện của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan của Công ty TNHH Quốc tế M đều có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 229 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà Đoàn Thị Yến V và Nguyễn Thị H.

[2] Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 22/01/2024, đại diện theo ủy quyền của Công ty TNHH Du lịch H.I.S S và Công ty Cổ phần L Đà Nẵng đã thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và sự thỏa thuận của các đương sự cụ thể như sau:

- Chấm dứt Hợp đồng thuê mặt bằng số 09/2017/HĐTTTM-FHOME ngày 26/4/2017 giữa Công ty TNHH Du lịch H.I.S S và Công ty Cổ phần L Đà Nẵng tại địa điểm kinh doanh tầng 5 Tòa nhà FHome - số 16 L, phường Thạch Thang, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.

- Công ty Cổ phần L Đà Nẵng hoàn trả lại Công ty TNHH Du lịch H.I.S S 1.300.000.000 đồng.

- Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm và phúc thẩm: Công ty Cổ phần L Đà Nẵng chịu.

Xét thấy sự thỏa thuận giữa các đương sự với nhau về việc giải quyết vụ án là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội. Căn cứ vào Điều 300, khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử sửa Bản án kinh doanh thương mại số 40/2023/KDTM-ST ngày 30/9/2023 của Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa theo các nội dung đã thỏa thuận trên theo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng tại phiên tòa.

[3] Về án phí kinh doanh thương mại:

[3.1] Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: 51.000.0000 đồng, Công ty Cổ phần L Đà Nẵng chịu.

- Công ty TNHH Du lịch H.I.S S không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm nên được hoàn trả lại số tiền 44.142.935 đồng tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm theo Biên lai thu số 0006232 ngày 12/10/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.

[3.2] Án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: 2.000.000 đồng, Công ty Cổ phần L Đà Nẵng chịu nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp 2.000.000 đồng tại Biên lai thu số 0001400 ngày 26/10/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điều 300, khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Sửa Bản án kinh doanh thương mại số 40/2023/KDTM-ST ngày 30/9/2023 của Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.

  1. Công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự như sau:

1.1. Chấm dứt Hợp đồng thuê mặt bằng số 09/2017/HĐTTTM-FHOME ngày 26/4/2017 giữa Công ty TNHH Du lịch H.I.S S và Công ty Cổ phần L Đà Nẵng tại địa điểm kinh doanh tầng 5 Tòa nhà FHome - số 16 L, phường Thạch Thang, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.

1.2. Công ty Cổ phần L Đà Nẵng phải trả lại Công ty TNHH Du lịch H.I.S S số tiền 1.300.000.000 đồng (một tỷ, ba trăm triệu đồng).

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chậm thực hiện nghĩa vụ đối với các khoản tiền phải trả, thì hàng tháng còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự cho đến khi thi hành xong.

  1. Về án phí kinh doanh thương mại:

2.1. Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: 51.000.0000 đồng (năm mươi mốt triệu đồng), Công ty Cổ phần L Đà Nẵng chịu.

- Công ty TNHH Du lịch H.I.S S không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm nên được hoàn trả lại số tiền 44.142.935 đồng (bốn mươi bốn triệu, một trăm bốn mươi hai nghìn, chín trăm ba mươi lăm đồng) tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm theo Biên lai thu số 0006232 ngày 12/10/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.

2.2 Án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: 2.000.000 đồng (hai triệu đồng), Công ty Cổ phần L Đà Nẵng chịu nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp 2.000.000 đồng (hai triệu đồng) tại Biên lai thu số 0001400 ngày 26/10/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.

  1. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo định tại điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nơi nhận:

TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM

- Các đương sự;

THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

- TAND quận Hải Châu; 

 

- Chi cục THADS quận Hải Châu; 

 

- VKSND TP Đà Nẵng;

- Cục THADS TP Đà Nẵng;

 

- Lưu hồ sơ vụ án.

Trần Hoài Sơn



3. Bản án về tranh chấp hợp đồng đặt cọc số 41/2024/DS-PT

https://docs.google.com/document/d/1Mtflsz-ZcGzV3jE45yKTPIGnqVt3MwwJ/edit?usp=sharing&ouid=102047713431837797912&rtpof=true&sd=true

 

TÒA ÁN NHÂN DÂN

 

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM                                                 

TỈNH ĐẮK LẮK

 

Độc lập - Tự do – Hạnh phúc

Bản án số: 41/2024/DS-PT

Ngày 18 - 01 - 2024

V/v “Tranh chấp hợp

 đồng đặt cọc”

 NHÂN DANH 

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

 TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

 - Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có: 

Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Hằng. 

Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Duy Thuấn.

                           Ông Nguyễn Ngọc Sâm. 

- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Mai Loan - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk. 

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa: Bà Trần Thị Xuân Linh Byă - Kiểm sát viên.

Ngày 18 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 487/2023/TLPT-DS ngày 13/12/2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc”. Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 169/2023/DS-ST ngày 07/9/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 481/2023/QĐ-PT ngày 20/12/2023, giữa các đương sự:

  1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị B; địa chỉ: Thôn A, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk; Vắng mặt.

Người đại diện ủy quyền của nguyên đơn: Ông Trần Minh T; địa chỉ: Thôn X, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk (Văn bản ủy quyền ngày 31/5/2022); Có mặt.

  1. Bị đơn: Ông Nguyễn Đình H; địa chỉ: Buôn KT, xã T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; Vắng mặt.

Người đại diện ủy quyền của bị đơn: Ông Trịnh Công Sơn; địa chỉ: Đường YK, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (Văn bản ủy quyền ngày 13/10/2022); Có mặt.

  1. Người kháng cáo: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị B và bị đơn ông Nguyễn Đình H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị B có người đại diện ủy quyền là ông Trần Minh T trình bày:

Thông qua sự giới thiệu của Công ty TNHH đầu tư phát triển BA, ngày 15/4/2022, bà Nguyễn Thị B và ông Nguyễn Đình H có ký kết Hợp đồng đặt cọc số HĐC/XaEaNingCukuin/15.04.2022/DakLak để mua bán, chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất đối với 02 thửa đất của ông Nguyễn Đình H với giá chuyển nhượng 3.000.000.000 đồng (Ba tỷ đồng), có xác nhận của bên làm chứng là Công ty TNHH đầu tư phát triển BA, đại diện bà Nguyễn Thị H1, thông tin các thửa đất như sau:

- Thửa đất số 3442, tờ bản đồ số 24, diện tích: 6.830m2, tọa lạc tại xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.

- Thửa đất số 7275, tờ bản đồ số 24, diện tích: 4.000m2, tọa lạc tại xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.

Tại thời điểm đặt cọc, ông H cho biết hiện 02 thửa đất trên đang đứng tên chủ cũ là ông Nguyễn Văn H2 và bà Hồ Thị L, ông H cam kết đã mua lại và đang làm thủ tục nhận chuyển nhượng và sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên ông H và cho biết diện tích đất sử dụng nhiều hơn trên GCNQSDĐ khoảng gần 2.000m2, sau khi kiểm tra hiện trạng thực tế của 02 thửa đất, các bên thống nhất các nội dung trong đó có: “Bên bán cam kết bán toàn bộ thửa đất trên cùng toàn bộ số đất chưa được công nhận trên sổ hồng từ đuôi thửa đất số 7275 sát tới bờ suối và ráp với ranh đất của 02 nhà bên cạnh với tổng diện tích đất trong và ngoài giấy chứng nhận là khoảng 12.800m2”.

Khi thực hiện đặt cọc, bà B cùng các bên liên quan đã đi khảo sát thực địa, trên thửa đất có căn nhà cấp 4 hoàn thiện và một số cây trồng (loại cây lâu năm) trên đất như cây gỗ muồng, cây keo lớn.

Diễn biến vụ việc sau khi các bên đặt cọc/ nhận cọc:

  1. Theo Điều I của Hợp đồng đặt cọc: Bên bán cam kết chuyển nhượng toàn bộ 02 thửa đất số 3442, 7275 với tổng diện tích được công nhận là 10.830m2 cùng với diện tích thực tế chưa được công nhận với tổng diện tích đất trong và ngoài sổ khoảng 12.800m2.

Ngày 29/5/2022, bà B mời nhân viên đo đạc Phòng địa chính huyện C vào đất để đo đạc. Kết quả sau khi đo đạc thì tổng diện tích đất thực tế của bên bán đang sử dụng bao gồm cả đất sát suối chưa được công nhận trên sổ chỉ được 9.150,6m2, tức còn thiếu 1.679,4m2 so với GCNQSDĐ và thiếu đến 3.649,4m2 so với cam kết của ông H tại hợp đồng đặt cọc.

  1. Theo mục 1.4 khoản 1 Điều 6 của Hợp đồng đặt cọc thống nhất: “Bên bán bàn giao cây cối, nhà cửa và toàn bộ bản chính gồm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất cùng các giấy tờ liên quan của Thửa đất cho bên mua như thỏa thuận của hợp đồng này”.

Tại địa điểm và tại thời điểm đặt cọc, bên bán là ông H đã thống nhất với bà B sẽ bán đất theo hiện trạng bao gồm toàn bộ nhà cửa và cây cối trên đất có sự làm chứng của bà Nguyễn Thị H1, ông Phạm Đức H3 và bà Trần Thị Mỹ A.

Ngày 06/5/2022, bà B phát hiện 01 nhóm người tới mảnh đất mà bà B mua để dỡ mái nhà, toàn bộ gỗ trong nhà, đập nát tường nhà theo chỉ đạo của ông H mà ông H không có bất kỳ thông báo gì cho bà B, bà B không đồng ý. Bà B đã liên hệ với người làm chứng là bà H1 để gọi điện cho ông H, ông H xác nhận qua điện thoại là chủ cũ xin gỗ trong nhà và xin một vài cây trước khi bà B đặt cọc, nhưng bà B không đồng ý vì không có tài sản trên đất như hiện trạng là đầy đủ nhà cửa và cây cối thì bà B sẽ không mua.

Ngày 07/5/2022, bà B phát hiện bà Lê Thị H4 (Là người quen của ông Nguyễn Đình H, tự xưng là chủ cũ) đã tự ý cho người xuống cưa cây cối (cụ thể đã cưa 02 cây mít lớn) trên mảnh đất mà bà B đã đặt cọc để thu lợi từ việc bán gỗ (đã có biên bản làm việc) và tiếp tục phá dỡ nhà cửa trên đất để lấy mái tôn, sắt thép, xà gồ. Bà B có yêu cầu bà H4 chấm dứt hành vi này nhưng bà H4 không đồng ý với lý do bà H4 đã mua cây và tôn trước đó nên bây giờ bà H4 buộc phải lấy còn không thì ông H phải trả 25.000.000 đồng cho bà H4 thì bà H4 mới không chặt cây nữa. Ngay lúc đó bà H1 đã gọi cho ông H thì ông H vẫn nói là chủ cũ xin nhưng bà B không đồng ý, sau đó ông H nói để ông H giải quyết nên mọi người đi về.

Ngày 08/5/2022, bà B phát hiện bà H4 tiếp tục cho người cưa hạ cây muồng cổ thụ có giá trị cao trên đất mà bà B đã đặt cọc, bà B yêu cầu bà H4 chấm dứt việc làm trên thì bà H4 giải thích là không thấy ông H nói gì về việc yêu cầu bà H4 ngừng đốn cây. Bà B và bà H1 đã liên hệ với ông H nhưng không nhận được sự hồi đáp nào.

Đến ngày hẹn thực hiện ký kết hợp đồng chuyển nhượng, vào lúc 14 giờ ngày 30/5/2022, bà B, bà H1 cùng ông H có mặt tại Văn phòng công chứng C để thực hiện thủ tục công chứng sang tên và thanh toán số tiền còn lại, bà B đã chuẩn bị đủ tiền để thanh toán. Tại đây bà B yêu cầu ông H cung cấp các giấy tờ hợp pháp để chứng minh diện tích thực tế là đủ theo cam kết hợp đồng đặt cọc là 12.800m2. Tuy nhiên ông H đã không cung cấp đầy đủ các giấy tờ hợp pháp chứng minh phần diện tích chưa được công nhận theo cam kết và bản vẽ đo diện tích sử dụng thực tế, mà chỉ cung cấp được Giấy chứng nhận QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất của 02 thửa đất số 3442, 7275, tờ bản đồ số 24, đất tọa lạc tại xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk với tổng diện tích trên giấy CNQSDĐ là 10.830m2. Trong khi trước đó bà B đã báo với ông H rằng diện tích đất bà B đo đạc thực tế không đủ như diện tích trên Giấy chứng nhận QSDĐ và đề nghị ông H giải quyết hậu quả của việc tự ý dỡ nhà và cây trồng trên đất, nhưng ông H không chịu giải quyết. Đến 17 giờ cùng ngày, sau khi các bên không thống nhất được nội dung theo Hợp đồng đặt cọc, ông H đã bỏ về và từ chối công chứng, với lý do bên mua đất là bà B không đồng ý công chứng (có “Biên bản ghi nhận” được đính kèm và hình ảnh, các đoạn phim làm bằng chứng).

Nhưng để thể hiện thiện chí bên mua đất, bà B đồng ý gia hạn thời hạn bổ sung hồ sơ, giấy tờ đối với ông H (theo thỏa thuận ông H tại tin nhắn gửi đến bà B), đến hết 11 giờ 00 phút ngày 31/5/2022. Địa điểm hẹn được ông H đưa ra là tại Văn phòng công chứng ĐA, đường NQ, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

Sáng ngày 31/5/2022, bà B cùng bà H1 và ông Trần Minh T có mặt tại Văn phòng công chứng ĐA, NQ, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Sau khi gọi cho ông H thì ông H yêu cầu cả 03 đến địa chỉ: Số 18/8 NQ, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk để ký hợp đồng chuyển nhượng. Sau khi các bên có mặt tại đây thì vẫn không đi đến thống nhất về việc cung cấp các thông tin đo đạc thực tế và giải quyết việc cưa cây, phá dỡ nhà nên không thực hiện được ký kết hợp đồng chuyển nhượng. Vì vậy, bà B yêu cầu ông H chấm dứt hợp đồng đặt cọc và trả lại tiền cọc cho bà B nhưng ông H không đồng ý.

Nay bà Nguyễn Thị B khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết:

- Chấm dứt hợp đồng đặt cọc số HĐC/XaEaNingCukuin/15.04.2022/DakLak ký kết ngày 15/4/2022 giữa ông Nguyễn Đình H và bà Nguyễn Thị B với lý do ông H đã vi phạm các nội dung thỏa thuận và cam kết tại hợp đồng đặt cọc.

- Buộc ông Nguyễn Đình H phải trả lại và bồi thường cho bà Nguyễn Thị B tổng số tiền 800.000.000 đồng, trong đó gồm: 400.000.000 đồng tiền bà B đã đặt cọc cho ông H và 400.000.000 đồng tiền bồi thường phạt cọc do vi phạm hợp đồng đặt cọc.

Bị đơn ông Nguyễn Đình H có đại diện theo ủy quyền là ông Trịnh Công S trình bày:

Xuất phát từ hợp đồng đặt cọc để chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bên chuyển nhượng ông Nguyễn Đình H với bên nhận chuyển nhượng bà Nguyễn Thị B. Thông tin về tài sản nhận đặt cọc chuyển nhượng của ông Nguyễn Đình H:

- Thửa đất số 3442, tờ bản đồ số 24, diện tích: 6.830m2, tọa lạc tại xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.

- Thửa đất số 7275, tờ bản đồ số 24, diện tích: 4.000m2, tọa lạc tại xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.

Tổng diện tích theo hợp đồng đặt cọc ngày 15/4/2022 và theo 02 giấy chứng nhận là 10.830m2. Giá chuyển nhượng thỏa thuận giữa hai bên là 3.000.000.000 đồng (Ba tỷ đồng). Bên mua đã đặt cọc trước số tiền 400.000.000 (Bốn trăm triệu đồng), số tiền còn lại là 2.600.000.000 đồng (Hai tỷ sáu trăm triệu đồng). Thời gian đặt cọc kể từ ngày 15/4/2022 đến ngày 30/5/2022, bên mua cam kết đóng toàn bộ các khoản thuế phí khi chuyển nhượng gồm: Thuế thu nhập cá nhân, phí trước bạ, lệ phí công chứng.

Căn cứ theo Điều 5 Hợp đồng đặt cọc về việc xử lý vi phạm hợp đồng, thì khi hết thời hạn đặt cọc nói trên mà các bên không tiến hành theo tiến độ và phương thức thanh toán thì xử lý như sau: Nếu giao dịch bị hủy do Bên mua từ chối nhận chuyển nhượng với bất kỳ lý do gì thì bên mua phải chịu mất số tiền đã thanh toán cho bên bán mà không có bất kỳ khiếu nại gì. Ngược lại nếu giao dịch bị hủy do bên bán từ chối chuyển nhượng hoặc vi phạm những cam kết trong hợp đồng này với bất kỳ lý do gì thì phải bồi thường gấp đôi số tiền bên mua đã đặt cọc với tổng số tiền là 800.000.000 đồng (Tám trăm triệu đồng). Do đó, đối với yêu cầu của bà B buộc ông H phải trả tổng số tiền 800.000.000 đồng, gồm 400.000.000 đồng bà B đã đặt cọc và 400.000.000 đồng tiền phạt cọc là hết sức vô lý, bởi khi đến ngày công chứng bà B không có đủ tiền để thanh toán số tiền còn lại cho ông H mà ông H vẫn tạo điều kiện cho dời ngày công chứng sang ngày hôm sau nhưng bà B vẫn không chuẩn bị đủ tiền để thanh toán theo thỏa thuận, đến thời điểm hiện tại ông H vẫn có thiện chí tiếp tục bán cho bà B, bà B vì động cơ nào đi nữa thì ông H vẫn không vi phạm hợp đồng, bởi bên bán chỉ phải trả lại tiền cọc và chịu phạt cọc từ chối chuyển nhượng hoặc vi phạm những cam kết trong hợp đồng, còn trường hợp này do bà B lướt cọc không được nên muốn xin lại cọc thì ông H không đồng ý, nên bà B không có quyền đòi ông H đền cọc.

Ông H không đồng ý với khởi kiện của bà B vì những lý do sau:

- Về phần diện tích, ông H cam kết bán toàn bộ 02 thửa đất được công nhận trên sổ và toàn bộ đất chưa được công nhận là khoảng 12.800m2. Diện tích này 02 bên đã thống nhất ước chừng chứ không có cam kết cụ thể phải đủ diện tích như trong 02 GCNQSDĐ nói trên. Ông H bán cho bà B toàn bộ diện tích trong sổ và phần đất chưa được công nhận tức ông H đã thực hiện đúng theo thỏa thuận trong hợp đồng, còn về kết quả đo đạc mới diện tích có thay đổi thì không phải do lỗi của ông H vì hợp đồng đặt cọc là bán theo diện tích trên giấy chứng nhận đã được cơ quan thẩm quyền cấp. Bà B khởi kiện ông H vi phạm hợp đồng do không đủ diện tích cam kết là không có cơ sở.

- Theo trình bày của nguyên đơn yêu cầu ông H cung cấp các giấy tờ hợp pháp (trích lục của phòng địa chính, biên bản đo đạc hoặc “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất” để chứng minh diện tích thực tế là đủ theo cam kết tại Hợp đồng đặt cọc là 12.800m2 mà ông H không cung cấp là vô lý, bởi tại thời điểm công chứng ông H đã cung cấp đầy đủ giấy tờ cho văn phòng công chứng để thực hiện thủ tục công chứng chuyển nhượng 02 thửa đất nêu trên cho bà B. Ông H đã thực hiện đầy đủ theo hợp đồng đặt cọc đã ký giữa các bên nhưng tới ngày công chứng bà B lại yêu cầu cung cấp những giấy tờ không đúng theo như thỏa thuận trong hợp đồng đặt cọc, cố tình gây khó khăn cho các bên trong việc tiến hành các thủ tục để chuyển quyền sở hữu là bà B đã vi phạm nghiêm trọng mục 2.5 khoản 2 Điều 6 của Hợp đồng đặt cọc “Tạo điều kiện thuận lợi và kết hợp cùng với các bên tiến hành các thủ tục để chuyển quyền sở hữu trong thời gian sớm nhất có thể”.

Về phần bà B khởi kiện ông H đã tự ý cưa cây tháo dỡ nhà cửa không bàn giao hiện trạng như khi ký kết Hợp đồng đặt cọc vi phạm tại mục 1.4 khoản 1 Điều 6 của Hợp đồng đặt cọc “Bên bán bàn giao cây cối, nhà cửa và toàn bộ giấy tờ bản chính gồm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất cùng các giấy tờ liên quan của Thửa đất cho bên mua theo như thỏa thuận trong hợp đồng này”, thì theo Mục 3 Điều 4 của Hợp đồng đặt cọc về Các thỏa thuận chuyển nhượng, các bên đã thỏa thuận rõ ràng và gạch bỏ đi nội dung “Ngay sau khi thanh toán xong đợt 1, Bên bán bàn giao vườn và nhà cho bên mua để bên mua có quyền dọn vườn như dỡ nhà, cắt cây,… theo ý bên mua”. Các bên đã thỏa thuận và có chữ ký xác nhận đồng ý bỏ đi điều khoản này. Như vậy, những tài sản trên vẫn thuộc quyền quản lý của ông H nên bà B không có quyền khởi kiện ông H về việc ông H không giữ nguyên hiện trạng tài sản trên đất.

Đề nghị Tòa án làm rõ căn cứ vào đâu để bà B khởi kiện ông H các nội dung trên. Theo hợp đồng đặt cọc thì thời hạn đặt cọc đã hết mà bên mua không chuẩn bị đủ số tiền thanh toán đợt 2, không giao dịch tiếp thì mất cọc. Tại thời điểm ngày 11/11/2022, nếu bà B đồng ý mua thì ông H vẫn thể hiện thiện chí muốn bán theo như thỏa thuận trong hợp đồng đặt cọc, nếu bà B không mua thì phải chịu mất tiền cọc. Do đó, ông Nguyễn Đình H không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà B, đề nghị Tòa án xem xét bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà B.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 169/2023/DS-ST ngày 07/9/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 102, Điều 147, Điều 157, Điều 220, Điều 235, Điều 266, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 117, Điều 122, Điều 131, Điều 328 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 188 Luật Đất đai; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

  1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị B.

- Tuyên bố hợp đồng đặt cọc số HĐC/Xa EaNingCukuin/15.04.2022/DakLak ký kết ngày 15/4/2022 giữa ông Nguyễn Đình H với bà Nguyễn Thị B là vô hiệu.

- Buộc ông Nguyễn Đình H có nghĩa vụ trả cho bà Nguyễn Thị B số tiền đặt cọc là 400.000.000 đồng (Bốn trăm triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, ông Nguyễn Đình H còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự.

  1. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị B về việc buộc ông Nguyễn Đình H có nghĩa vụ trả cho bà Nguyễn Thị B số tiền phạt cọc là 400.000.000 đồng (Bốn trăm triệu đồng).
  2. Hủy bỏ Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 18/2022/QĐ-BPBĐ ngày 24/11/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột.

Giải tỏa số tiền 40.000.000 đồng (Bốn mươi triệu đồng) trong tài khoản số 0931414166 của khách hàng Nguyễn Thị B, sinh ngày 30/9/1996 mở tại Ngân hàng TMCP Q– Chi nhánh Đắk Lắk.

  1. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: Ông Nguyễn Đình H có nghĩa vụ hoàn trả cho bà Nguyễn Thị B 1.000.000 đồng (Một triệu đồng) chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ.
  2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Ông Nguyễn Đình H phải chịu 20.300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho bà Nguyễn Thị B 18.300.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo biên lai thu số AA/2021/0019769 ngày 30/6/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về quyền yêu cầu thi hành án và quyền kháng cáo cho các đương sự.

Ngày 22/9/2023 (Theo dấu bưu điện), nguyên đơn bà Nguyễn Thị B kháng cáo một phần bản án sơ thẩm với nội dung: Đề nghị sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu của bà B về việc buộc ông H phải trả 400.000.000 đồng tiền phạt cọc cho bà B.

Ngày 25/9/2023, bị đơn ông Nguyễn Đình H kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm với nội dung: Đề nghị bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn bà Nguyễn Thị B giữ nguyên nội dung đơn khởi kiện và nội dung đơn kháng cáo; bị đơn ông Nguyễn Đình H giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk phát biểu:

Về tố tụng: Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án và các đương sự đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Qua phân tích đánh giá các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật tố tụng dân sự – Chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị B; Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Đình H; Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 169/2023/DS-ST ngày 07/9/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột để chấp nhận phần yêu cầu phạt cọc của bà B.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Đơn kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị B và bị đơn ông Nguyễn Đình H làm trong hạn luật định và đã nộp tiền tạm ứng án phí nên được xem xét, giải quyết theo trình tự phúc thẩm.

[2]. Về nội dung:

Xét kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị B và bị đơn ông Nguyễn Đình H, Hội đồng xét xử xét thấy:

[2.1]Tại Hợp đồng đặt cọc thể hiện ngày 15/4/2022, ông Nguyễn Đình H ký kết với bà Nguyễn Thị B hợp đồng đặt cọc để chuyển nhượng: Quyền sử dụng thửa đất số 3442, tờ bản đồ số 24, diện tích: 6.830m2 và thửa đất số 7275, tờ bản đồ số 24, diện tích: 4.000m2, đều tọa lạc tại xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk và toàn bộ tài sản gắn liền với đất, giá chuyển nhượng 3.000.000.000 đồng, có xác nhận của bên làm chứng là Công ty TNHH đầu tư phát triển BA(đại diện Công ty là bà Nguyễn Thị H1). Cùng ngày 15/4/2022, bà B đã đặt cọc cho ông H 400.000.000 đồng, thỏa thuận đến ngày 30/5/2022 hai bên sẽ ra Văn phòng công chứng để ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng 02 thửa đất trên và bà B sẽ thanh toán nốt số tiền còn lại là 2.600.000.000 đồng.

Tại thời điểm bà B và ông H ký hợp đồng đặt cọc ngày 15/4/2022, GCNQSDĐ của 02 thửa đất nói trên vẫn đứng tên chủ cũ là ông Nguyễn Văn H2, bà Hồ Thị L. Đến ngày 21/4/2022, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện C ký xác nhận chuyển nhượng cho ông Nguyễn Đình H tại 02 GCNQSDĐ nói trên là trước thời điểm hai bên thỏa thuận ra Văn phòng công chứng lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Vì vậy, ông H vẫn được quyền nhận tiền đặt cọc của bà B và không vi phạm quy định về chủ thể quy định tại Điều 167, khoản 1 Điều 168 Luật Đất đai năm 2013, nên hợp đồng đặt cọc có hiệu lực. Do vậy, cấp sơ thẩm cho rằng tại thời điểm thỏa thuận ký hợp đồng đặt cọc các thửa đất 3442 và 7275 vẫn đứng tên ông H2, bà L nên hợp đồng đặt cọc vô hiệu là không có căn cứ.

[2.2] Về lỗi của các bên trong việc không thực hiện được hợp đồng chuyển nhượng.

Tại trang 02 của hợp đồng đặt cọc nói trên, thể hiện tại phần ghi chú: “Bên bán cam kết bán toàn bộ thửa đất trên cùng toàn bộ số đất chưa được công nhận trên sổ hồng từ đuôi thửa đất số 7275 sát tới bờ suối và ráp với ranh đất của 02 nhà bên cạnh với tổng diện tích đất trong và ngoài giấy chứng nhận là khoảng 12.800m2”. Tức ngoài tổng diện tích theo GCNQSDĐ của 02 thửa đất nói trên là 10.830m2, thì ông H còn cam kết diện tích ngoài thực tế còn nhiều hơn so với diện tích trong 02 GCNQSDĐ, cụ thể tổng diện tích thực tế là khoảng 12.800m2. Tuy nhiên, kết quả kiểm tra hiện trạng thể hiện thửa đất số 3442, tờ bản đồ số 24 có diện tích thực tế là 5.710m2 và thửa đất số 7275, tờ bản đồ số 24 có diện tích thực tế là 3.440,4m2, là thiếu so với diện tích đất trong 02 GCNQSDĐ. Như vậy, ông H đã không thực hiện đúng nội dung đã cam kết trong hợp đồng đặt cọc về đảm bảo diện tích đất thực tế đủ so với GCNQSDĐ, thậm chí ông H còn đưa ra thông tin diện tích đất thực tế nhiều hơn so với GCNQSDĐ.

Theo nội dung hợp đồng đặt cọc thì bà B nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và toàn bộ tài sản gắn liền với đất của 02 thửa đất nói trên. Tại mục 1.4 khoản 1 Điều 6 của Hợp đồng đặt cọc thống nhất: “Bên bán bàn giao cây cối, nhà cửa và toàn bộ bản chính gồm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất cùng các giấy tờ liên quan của Thửa đất cho bên mua như thỏa thuận của hợp đồng này”. Đồng thời hai bên cùng thống nhất gạch bỏ nội dung thỏa thuận tại mục 3 Điều 4 “Ngay sau khi thanh toán xong đợt 1, bên bán bàn giao vườn và nhà cho bên mua, để bên mua có quyền dọn vườn như dỡ nhà, cắt cây,… theo ý của bên mua”. Tức bà B sẽ được ông H bàn giao vườn cây và căn nhà trên đất sau khi thanh toán đủ số tiền nhận chuyển nhượng 3.000.000.000 đồng. Tuy nhiên, khi chưa đến ngày thỏa thuận ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Văn phòng công chứng (Ngày 30/5/2022), thì ông H đã tự ý cho người vào tháo dỡ nhà và chặt phá cây trên đất là làm cho tài sản mà bà B đặt cọc để mua không còn hiện trạng như ban đầu khi hai bên thỏa thuận mua, mà đã bị giảm giá trị nên ông H đã vi phạm nội dung hợp đồng đặt cọc.

Ngoài ra, ngày 30/9/2022 ông H đã làm thủ tục tách thửa đất số 3442 thành các thửa đất số 7416, 7417, 7418, 7419, 7420, 7421 và được Sở Tài nguyên môi trường tỉnh Đắk Lắk cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ngày 14/10/2022 ông H làm thủ tục chuyển nhượng thửa đất số 7419, 7420, 7421 tờ bản đồ số 22 nêu trên cho ông Hoàng Nghĩa H5.

Từ những nhận định nêu trên, xét thấy việc ông H chuyển nhượng diện tích đất thực tế không đúng diện tích trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; tự ý chặt cây và phá dỡ nhà trên đất làm giảm giá trị tài sản chuyển nhượng; hiện một phần diện tích đất thỏa thuận chuyển nhượng cho bà B đã bị ông H chuyển nhượng cho người khác, nên việc bà B không tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ là lỗi hoàn toàn do ông H. Do vậy, bà B yêu cầu ông H trả lại tiền cọc 400.000.000 đồng và bồi thường tiền phạt cọc 400.000.000 đồng là có căn cứ, không trái quy định pháp luật và đúng nội dung thỏa thuận trong hợp đồng đặt cọc.

[3]Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị B; không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Đình H, sửa một phần bản án sơ thẩm về phần hợp đồng đặt cọc có hiệu lực và phần phạt cọc.

[4] Về án phí:

[4.1] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do sửa bản án sơ thẩm theo hướng buộc ông Nguyễn Đình H có nghĩa vụ trả cho bà Nguyễn Thị B tổng số tiền 800.000.000 đồng (Tám trăm triệu đồng), trong đó gồm: 400.000.000 đồng tiền bà Nguyễn Thị B đã đặt cọc và 400.000.000 đồng tiền phạt cọc nên ông H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là: 20.000.000 + (400.000.000 x 4%) = 36.000.000 đồng và 300.000 đồng án phí không có giá ngạch.

[4.2] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận nên bà Nguyễn Thị B không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Do kháng cáo không được chấp nhận nên ông Nguyễn Đình H phải chịu tiền án phí dân sự phúc thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị B.

Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Đình H.

Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 169/2023/DS-ST ngày 07/9/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột.

[2] Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 102, Điều 147, Điều 157, Điều 220, Điều 235, Điều 266, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 116, Điều 117, Điều 328 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 188 Luật Đất đai; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

[2.1] Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị B.

Công nhận hợp đồng đặt cọc số HĐC/Xa EaNingCukuin/15.04.2022/DakLak ký kết ngày 15/4/2022 giữa ông Nguyễn Đình H với bà Nguyễn Thị B có hiệu lực.

Buộc ông Nguyễn Đình H có nghĩa vụ trả cho bà Nguyễn Thị B tổng số tiền 800.000.000 đồng (Tám trăm triệu đồng), trong đó gồm: 400.000.000 đồng tiền bà Nguyễn Thị B đã đặt cọc và 400.000.000 đồng tiền phạt cọc do ông Nguyễn Đình H vi phạm hợp đồng đặt cọc.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, ông Nguyễn Đình H còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự.

[2.2] Hủy bỏ Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 18/2022/QĐ- BPBĐ ngày 24/11/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột.

Giải tỏa số tiền 40.000.000 đồng (Bốn mươi triệu đồng) trong tài khoản số 0931414166 của khách hàng Nguyễn Thị B, sinh ngày 30/9/1996 mở tại Ngân hàng TMCP Q– Chi nhánh Đắk Lắk.

[2.3] Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: Ông Nguyễn Đình H có nghĩa vụ hoàn trả cho bà Nguyễn Thị B 1.000.000 đồng (Một triệu đồng) tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ.

[2.4] Về án phí:

[2.4.1] Án phí dân sự sơ thẩm:

Ông Nguyễn Đình H phải chịu 36.300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho bà Nguyễn Thị B 18.300.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo biên lai thu số AA/2021/0019769 ngày 30/6/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B.

[2.4.2] Án phí dân sự phúc thẩm:

Ông Nguyễn Đình H phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự phúc thẩm, được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp theo biên lai thu số AA/2022/0004715 ngày 11/10/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B.

Hoàn trả cho bà Nguyễn Thị B 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp theo biên lai thu số AA/2022/0004777 ngày 16/10/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nơi nhận:

TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM

- TAND cấp cao tại Đà Nẵng;

THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

- VKSND tỉnh Đắk Lắk; 

 

- TAND Tp. Buôn Ma Thuột; 

 

- Chi cục THADS Tp. B

- Các đương sự;

 

- Lưu hồ sơ.

Nguyễn Thị Hằng

 

4. Bản án về tranh chấp hợp đồng thi công số 24/2024/DS-PT

https://docs.google.com/document/d/1pN9AAvgzfiC3SiV1PrBCsD6chCAHaXLt/edit?usp=sharing&ouid=102047713431837797912&rtpof=true&sd=true

 

    TÒA ÁN NHÂN DÂN

TỈNH LONG AN

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM   Độc lập – Tự Do – Hạnh Phúc

Bản án số 24/2024/DS-PT

Ngày 11-01-2024

V/v tranh chấp hợp đồng thi công 

 

 

 NHÂN DANH 

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

 TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN 

 

- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có: 

Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Lê Thị Kim Nga. 

Các Thẩm phán: Ông Trần Tấn Quốc.

                           Bà Trịnh Thị Phúc. 

- Thư ký phiên tòa: Bà Ngô Hồng Thúy - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Long An. 

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tham gia phiên tòa: Bà Đặng Thị Cẩm Chi - Kiểm sát viên.

Ngày 11 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 524/2023/TLPT-DS ngày 27 tháng 11 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng thi công”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 101/2023/DS-ST ngày 25 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện B bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 857/2023/QĐ-PT ngày 14 tháng 12 năm 2023 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn T5.

Địa chỉ trụ sở: số 95/11/9 HT45, phường H, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp theo pháp luật: ông Nguyễn Trọng Vĩnh T. Chức vụ: Chủ tịch Hội đồng thành viên.

Người đại diện hợp pháp theo ủy quyền: bà Nguyễn Thị Kim N, sinh năm 1988; địa chỉ: số C T, Phường A, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh.

(Theo Giấy uỷ quyền số 03/2023/GUQ-KPL ngày 18/9/2023).

- Bị đơn: bà Đoàn Mộng Đài T1, sinh năm 1982; Địa chỉ: số F, Ấp A, xã N, huyện B, tỉnh Long An.

Người đại diện hợp pháp của bị đơn: bà Đặng Thị Thành Đ, sinh năm 1979; địa chỉ: số D, M, thị trấn B, huyện B, tỉnh Long An.

(Theo Giấy uỷ quyền ngày 28/4/2023).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

  1. Công ty Trách nhiệm hữu hạn Đ2.

Người đại diện hợp pháp theo pháp luật: ông Mai Bá T2, Tổng Giám đốc. 

Địa chỉ: số B, Cao Văn L, Khu phố B, Phường E, thành phố T, tỉnh Long An.

  1. Công ty Cổ phần S.

Người đại diện hợp pháp theo pháp luật: ông Đoàn C, sinh năm 1961; 

Địa chỉ trụ sở: số A, Nguyễn Văn N1, ấp P, xã T, huyện B, tỉnh Long An.

  1. Ông Huỳnh Văn G, sinh năm 1978; 

Địa chỉ: số E, Ấp A, xã T, huyện B, tỉnh Long An.

  1. Ông Đặng Văn C1, sinh năm 1966; 

Địa chỉ: số C, N, Phường F, thành phố T, tỉnh Long An.

  1. Bà Trần Thị N2, Chủ hộ kinh doanh cá thể H.

Địa chỉ: Ấp A, xã N, huyện B, tỉnh Long An.

  1. Bà Nguyễn Thị Kim T3, sinh năm 1975; 

Địa chỉ: Ấp A, xã N, huyện B, tỉnh Long An.

- Người kháng cáo: nguyên đơn Công ty Trách nhiệm hữu hạn T5.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 30 tháng 9 năm 2022 và các lời khai trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án cấp sơ thẩm, nguyên đơn Công ty Trách nhiệm hữu hạn T5 do bà Nguyễn Thị Kim N đại diện trình bày:

Ngày 23/8/2022, Công ty Trách nhiệm hữu hạn T5 (Công ty T5) có ký hợp đồng xây dựng nhà với bà Đoàn Mộng Đài T1, với nội dung như sau: “Bên A đồng ý giao và bên B đồng ý thi công xây dựng một căn nhà đã được bên A thiết kế hoàn chỉnh, theo hình thức giao trọn gói xây dựng thô. Định nghĩa bao trọn gói xây dựng thô: Bên nhà thầu chịu tất cả chi phí vật tư và nhân công từ khâu dọn dẹp mặt bằng, ép cọc, móng cà kiềng, xây tô hoàn chỉnh các tầng, khung sường và lợp hoàn chỉnh mái ngói, bao gồm những vật tư như hệ thống cấp thoát nước, hệ thống điện âm tường và bồn chứa nước âm mặt đất bằng moter bơm đầy lê tầng lầu. Trong đó bao gồm luôn nhân công đến hoàn thiện công trình. Địa điểm xây dựng: Nhựt Chánh – B. Diện tích xây dựng: 95,03 và một số hạng mục khác theo bảng vẽ thiết kế và giấy phép xây dựng. Giá xây dựng toàn bộ theo bảng vẽ thiết kế trên là 605.500.000đồng” Công ty chỉ nhận từ bà T1 đặt cọc số tiền 5.000.000 đồng. Hợp đồng có thỏa thuận, bà T1 sẽ thanh toán đợt 1 cho bên B (Công ty T5) 100% giá trị ép cọc khi bên B hoàn thành ép cọc. Tuy nhiên, sau ngày ép cọc 13/9/2022, bà T1 và người bà T1 ủy quyền là ông C1 nói rằng không tin tưởng Công ty, nên trực tiếp thanh toán cho bên ép cọc là ông Mai Bá T2 đại diện Công ty Đ2 số tiền ép cọc lần 1 là 70.360.000 đồng và lần 2 là 28.500.000 đồng. Bà T1 và ông C1 còn yêu cầu Công ty T6 bỏ tiền ra làm công trình của bà T1 trước rồi sẽ thanh toán sau, bà T1 không tạm ứng.

Trong khi đó, tình hình kinh tế sau dịch còn khó khăn, Công ty T5 là doanh nghiệp vừa và nhỏ, lại còn thi công các công trình khác. Do đó Công ty không thể bỏ vốn ra làm công trình cho khách hàng khi chủ đầu tư không tạm ứng. Bà T1 nói trực tiếp trả tiền cho nhân công hàng tuần rồi yêu cầu Công ty ký nhận khoản tiền đã trả nhân công, còn chi phí vật tư Công ty T5 vẫn phải tự bỏ ra mua.

Bà T1 và ông C1 cũng là người giới thiệu một số nhà cung cấp vật tư gần công trình cho nguyên đơn đặt hàng. Vì muốn công trình thi công suôn sẻ, Công ty T5 cố gắng đứng ra mua nợ vật tư để thi công công trình của bà T1. Đến ngày 20/9/2022, Công ty lại tiếp tục đặt hàng ông Mai Bá T2 hỗ trợ đổ bêtông tầng trệt cho công trình bà T1. Tổng giá trị bêtông là 35.300.000 đồng. Sau khi đổ bêtông, nhận thấy bà T1 không tin tưởng, hai bên bất đồng nhiều vấn đề nên Công ty không tiếp tục thi công nữa. Từ đó đến nay, nhà cung cấp vật tư liên tục gọi đòi nợ, đe dọa hối thúc thanh toán nợ vật tư đã cung cấp cho công trình bà T1. Phía bà T1 cho rằng Công ty gọi vật tư thì Công ty T5 phải trả. Bà T1 cũng không thanh toán thêm cho Công ty T5 bất kỳ khoản tiền nào. Bà T1 và ông C1 còn dọa kiện Công ty và yêu cầu trả lại số tiền nhân công và tiền cọc mà phía bà T1 đã thanh toán trực tiếp cho nhân công và bên cung cấp cọc.

Công ty T5 thi công đến ngày 21/9/2022 ngưng không thi công, đến ngày 25/9/2022 thì Công ty T5 có gửi Biên bản thanh lý Hợp đồng xây dựng nhà cho bà T1, nhưng Công ty T5 không có chứng cứ thể hiện bà T1 nhận được Biên bản thanh lý trên.

Đến ngày 21/9/2022 Công ty T5 đã xây dựng xong phần ép cọc và đổ sàn nền bê tông tầng trệt. Sau khi công trình nhà của bà T1 xây dựng hoàn thiện phía Công ty T5 có đến nhà bà T1 nhiều lần để thỏa thuận về việc thanh lý hợp đồng, nhưng phía bà T1 không có thiện chí hợp tác.

Do bà T1 không tin tưởng Công ty T5 nên bà T1 đã đứng ra thanh toán cho ông Mai Bá T2 chi phí ép cọc 98.860.000đồng và tiền nhân công là 44.000.000 đồng, tiền thuê Kobe thu dọn bê tông vụn 8.000.000 đồng.

Hợp đồng xây dựng nhà ngày 23/8/2022 nêu rõ tại khoản IV/- Điều khoản xử lý nếu vi phạm hợp đồng.

“- Bên A không thanh toán cho bên B đúng như thỏa thuận điều 2 của hợp đồng thì bên A phải chịu trả lãi cho bên B bằng 2%/tháng của giá trị chậm thanh toán.

…Trường hợp bên B thi công không đúng chất lượng mà được bên B nhắc nhở 02 lần trở lên mà không khắc phục hoặc cố tình gian dối thì bên A đình chỉ thi công. Bên A sẽ không thanh toán toàn bộ giá trị mà bên B đã thi công”.

Do đó Công ty T5 khởi kiện đến Tòa án nhân dân huyện B để yêu cầu giải quyết các vấn đề sau:

Hủy Hợp đồng xây dựng nhà ngày 23/8/2022 giữa bà Đoàn Mộng Đài T1 và Công ty T5, Công ty đồng ý hoàn trả lại cho bà T1 số tiền 5.000.000 đồng mà bà T1 đã tạm ứng.

Yêu cầu bà T1 thanh toán toàn bộ tiền vật tư cho Công ty đã cung cấp cho công trình của T1. Số tiền vật tư (gạch, cát, đá, ximăng, sắt thép, ống nước…) tính đến thời điểm này bao gồm:

Tiền bêtông đổ tầng trệt ngày 20/9/2022, thanh toán cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn Đ2 do ông Mai Bá T2 đại diện là 35.300.000 đồng;

Tiền vật tư thanh toán cho cửa hàng vật tư của ông Huỳnh G 65.762.000đồng. Tiền vật tư thanh toán cho Công ty Cổ phần S 14.050.000 đồng;

Tiền vật tư thanh toán cho Hộ kinh doanh cá thể H 8.210.000đồng.

Tổng cộng là: 123.322.000đồng. Như vậy, sau khi trừ số tiền 5.000.000 đồng Công ty hoàn trả cho bà T1, bà T1 có trách nhiệm trả cho Công ty T5 số tiền 118.322.000 đồng.

Bị đơn bà Đoàn Mộng Đài T1 do bà Đặng Thị Thành Đồng đại diện trình bày:

Ngày 23/8/2022 Công ty T5 có ký kết với bà T1 hợp đồng xây dựng nhà với nội dung: Công ty sẽ thi công trọn gói nhà diện tích xây dựng 95,03m2. Hình thức thi công: thi công trọn gói bao gồm nhân công và vật tư. Giá trị hợp đồng là 608.500.000 đồng. Thời gian hoàn thành: 60 ngày. Trong hợp đồng còn có đính kèm bảng báo giá, chủng loại vật tư của bên Công ty T5 lập và hồ sơ bảng vẽ, thiết kế hoàn chỉnh do Công ty cổ phần T7 lập mà bà T1 cung cấp cho bên Công ty T5.

Quá trình thực hiện hợp đồng xây dựng của Công ty T5 được thể hiện qua từng giai đoạn như sau:

Ngày khởi công thực tế là ngày 06/09/2022. Qua 10 ngày thi công, bị đơn nhận thấy Công ty Kim Phúc L1 đã bộc lộ một số hạn chế như: năng lực về tài chính, năng lực về chuyên môn… khi phát hiện những hạn chế này, vào ngày 14/09/2022, bị đơn đã có văn bản nhắc nhở và đề nghị Công ty T5 liên hệ với người đại diện của bị đơn là ông C1 để làm việc cam kết khắc phục. Tại buổi làm việc ông C2 đại diện Công ty T5 đã thừa nhận toàn bộ những sai sót trong quá trình thi công và cam kết khắc phục.

Tuy nhiên, sau đó đơn vị thi công tiếp tục sai phạm, cụ thể: Công ty T5 cam kết đến ngày 17/09/2022 sẽ thi công xong phần đà móng, đổ bêtông sàn nền, nghiệm thu giai đoạn 1. Nhưng đến ngày 20/09/2022 là ngày đổ bê tông sàn nền (trễ 3 ngày so với cam kết), đại diện Công ty K1 không đến công trình, bỏ mặc công nhân không ai chỉ dẫn thi công và xử lý công việc. Đến ngày 21/09/2022 Công ty tự động cho công nhân ngừng thi công, bà T1 điện thoại rất nhiều lần, nhưng ông C2 đại diện Công ty Kim Phúc L1 không nghe máy, từ đó đến nay bà T1 không nhận bất cứ văn bản nào từ phía Công ty T5 và Công ty T5 cũng đã đơn phương chấm dứt hợp đồng với bà T1 mà không có một lời giải thích nào cho rõ ràng.

Quá trình mà bà T1 và Công ty T5 đã thực hiện hợp đồng xây nhà ngày 23/08/2022:

Tổng số ngày thi công là 15 ngày, trong đó có 02 ngày chủ nhật nghỉ, có 13 ngày thực hiện. Đơn vị thi công tự ý đơn phương chấm dứt hợp đồng khi chưa hoàn thành giai đoạn 1 (bao gồm ép cọc, phần đà, móng và sàn nền).

Tổng số tiền mà bị đơn phải bỏ ra để thanh toán cho các đơn vị liên quan và trả lương cho nhân công theo yêu cầu của nguyên đơn là 163.615.000 đồng (có chứng cứ kèm theo), tại phiên tòa sơ thẩm bà N đại diện cho Công ty T5 thừa nhận bà T1 đã thanh toán thay cho Công ty các khoản như chi phí ép cọc 98.860.000đồng, tiền nhân công 44.000.000 đồng, tiền thuê K thu dọn bê tông vụn 8.000.000 đồng, tổng số tiền 150.860.000 đồng, bà cũng đồng ý còn những khoản chi phí khác không lớn bà cũng không tranh chấp.

Ngay từ khi khởi công thực hiện công trình, đơn vị thi công đã có nhiều sai phạm và hứa hẹn khắc phục nhưng đã không khắc phục. Thậm chí, còn xảy ra nhiều sai sót thêm cả về kỹ thuật chuyên môn và trong việc xử lý tài chính cũng không rõ ràng, phía đơn vị thi công thường xuyên yêu cầu chủ đầu tư là bị đơn phải thanh toán thay mà các bên thỏa thuận toàn bộ chi phí thi công công trình đến khi hoàn chỉnh do phía nguyên đơn phải ứng ra điều này trái với hợp đồng mà các bên đã ký kết.

Tuy nhiên, do để đảm bảo cho việc thi công thuận lợi đúng tiến độ nên bị đơn đã đồng ý thanh toán thay cho Công ty. Nhưng không dừng lại đó, phía Công ty đã tự ý đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng làm cho bà T1 gặp rất nhiều khó khăn và ảnh hưởng rất lớn đến quá trình thi công. Sau khi nhiều lần liên lạc với ông C2 để trao đổi về vấn đề thi công nhưng không liên lạc được, bà T1 đã rất vất vả để tìm đơn vị khác đến tiếp tục công việc thi công dang dở, thậm chí việc mời đơn vị khác vào thi công đã làm cho chi phí xây dựng vượt trội gây ra thiệt hại rất nghiêm trọng cho bị đơn, nên bà T1 không đồng ý trước yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Trong quá trình giải quyết vụ án, bà đại diện cho bà T1 có ý kiến sẽ yêu cầu Công ty T5 phải bồi thường thiệt hại do Công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng trái quy định, tuy nhiên trong vụ án này bà T1 sẽ không yêu cầu mà bà T1 sẽ xem xét và khởi kiện sau. Đối với số tiền 5.000.000 đồng mà bà T1 đã đặt cọc cho Công ty T5 bà không yêu cầu Công ty phải hoàn trả lại.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty Trách nhiệm hữu hạn Đ2 (Công ty Đ2) do ông Mai Bá T2 đại diện trình bày:

Trước đây Công ty Đ2 và Công ty T5 có thỏa thuận Công ty Đ2 sẽ cung cấp cọc bê tông cốt thép và ép cọc cho công trình thi công: nhà phố tại địa chỉ số F Ấp A, N, huyện B, tỉnh Long An do bà Đoàn Mộng Đài T1 làm chủ đầu tư. Việc ép cọc thực hiện lần 1 vào ngày 06/9/2022 và lần 2 vào ngày 13/9/2022. Quá trình làm việc, Công ty Đ2 thực hiện ép cọc theo bản vẽ và hướng dẫn kỹ thuật của Công ty T5 và thống nhất phương án là bà T1 sẽ chuyển tiền trực tiếp qua tài khoản thanh toán của ông. Sau khi thực hiện ép cọc xong, ông C1 đại diện cho chủ nhà đồng ý nghiệm thu đạt yêu cầu và đã thanh toán cho ông. Ông đã nhận của bà T1 số tiền 98.860.000 đồng. Ngày 20/9/2022 Công ty T5 yêu cầu ông gửi đá Trà Đuốc và thiết kế cấp phối đá Trà Đuốc cho bà T1 duyệt. Đến ngày 22/9/2022 Công ty T5 lại yêu cầu ông cung cấp bê tông thương phẩm và ca bơm để đổ sàn cho công trình, vì đã từng làm việc trước đây, nên ông đồng ý tiếp tục cung cấp cho nguyên đơn. Tuy nhiên, lần này Công ty T5 không thanh toán tiền cho ông vì Công ty Kim Phúc L1 trình bày là bà T1 không đồng ý thanh toán. Ông đã liên hệ với Công ty T5 nhiều lần để yêu cầu thanh toán, nhưng Công ty Kim Phúc L1 không thanh toán cho ông. Hiện nay, Công ty T5 còn nợ Công ty Đ2 35.300.000 đồng, nhưng ông sẽ tự thỏa thuận với Công ty T5 không yêu cầu gì trong vụ án này.

Tại bản tự khai ngày 05/9/2023 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Kim T3 trình bày:

Trong năm 2022 bà có bán cho Công ty Kim Phúc L1 vật liệu xây dựng nhiều lần với tổng số tiền 8.210.000đồng, để Công ty T5 thi công nhà cho bà T1, nhưng đến nay Công ty vẫn chưa thanh toán cho bà, trong vụ án này bà không yêu cầu hay tranh chấp.

Tại bản tự khai ngày 05/9/2023 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị N3 – Chủ hộ Kinh doanh cá thể H trình bày:

Quá trình mua bán vật tư xây dựng với Công ty T5 do con dâu bà tên Nguyễn Thị Kim T3 trực tiếp giao dịch bà thống nhất với lời trình bày của bà T3. Trong vụ án này bà đại diện cho chủ hộ Kinh doanh cá thể H không tranh chấp hay yêu cầu gì.

Tại Biên bản lấy lời ngày 18/4/2023 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Huỳnh Văn G trình bày:

Vào khoảng đầu tháng 9/2022, ông có bán vật liệu xây dựng như sắt, cát, đá, xi măng cho Công ty T5 do ông Nguyễn Trọng Tuấn C2 đại diện đứng ra giao dịch. Công ty Kim Phúc L1 là chủ thầu xây dựng nhà cho bà Đ1 Mộng Đài T1 và yêu cầu ông giao vật tư tới nhà bà T1 tại Ấp A, xã N, huyện B, tỉnh Long An. Ông bán cho Công ty T5 được 3 tuần, thì Công ty T5 không tới lấy hàng nữa. Tổng số tiền hàng mà ông đã bán cho Công ty T5 khoảng hơn 40.000.000 đồng. Số tiền này công ty chưa thanh toán cho ông.

Ngay khi ông C2 không tới lấy vật tư thì ông không liên lạc được với ông C2, bà T1 điện thoại đề nghị ông cứ giao vật tư tiếp và bà sẽ thanh toán hết toàn bộ tiền vật tư, nên ông cũng tiếp tục giao vật tư cho bà T1. Khi ông giao hàng tới thì có người làm của ông C2 đại diện cho Công ty T5 ký xác nhận khối lượng. Số vật tư ông giao cho bà T1 sau này khoảng hơn 40.000.000 đồng. Tổng cộng tiền vật tư hơn 90.000.000 đồng ông chưa nhận được khoản nào. Công ty T5 khởi kiện bà Đoàn Mộng Đài T1 yêu cầu hủy hợp đồng xây dựng nhà ngày 23/8/2022, Công ty đồng ý hoàn trả cho bà T1 số tiền tạm ứng là 5.000.000 đồng, yêu cầu bà T1 thanh toán toàn bộ tiền vật tư cho công ty với số tiền là 123.322.000đồng, cấn trừ tiền tạm ứng 5.000.000 đồng còn lại số tiền 118.322.000 đồng, ông không có ý kiến hay tranh chấp gì trong vụ án này.

Tại Biên bản lấy lời khai ngày 30/4/2023 ông Đoàn C đại diện cho Công ty Cổ phần S trình bày:

Ông Huỳnh Văn G có kêu Công ty của ông bán vật liệu xây dựng như gạch, xi măng cho Công ty T5, ông có chở vật tư đến nhà của bà T1 tại xã N với số tiền 14.050.000 đồng. Ông được biết Công ty T5 thực hiện thi công mới làm phần móng, xây tường lên một chút thì ngưng không thi công. Công ty T5 khởi kiện bà Đoàn Mộng Đài T1 yêu cầu hủy hợp đồng xây dựng nhà ngày 23/8/2022, Công ty đồng ý hoàn trả cho bà T1 số tiền tạm ứng là 5.000.000 đồng, yêu cầu bà T1 thanh toán toàn bộ tiền vật tư cho công ty với số tiền là 123.322.000đồng, cấn trừ tiền tạm ứng 5.000.000 đồng còn lại số tiền 118.322.000 đồng, ông không có ý kiến hay tranh chấp gì trong vụ án này.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đặng Văn C1 trình bày:

Vào ngày 23 tháng 08 năm 2022 bà T1 có ký hợp đồng thi công xây dựng với công ty T5 hình thức thi công trọn gói. Giá trị hợp đồng là 608.500.000 đồng. Ngày khởi công xây thực tế là ngày 06/09/2022 (trong hợp đồng là ngày 05/09/2022).

Tuy nhiên, sau 10 ngày thi công, bà T1 có đến nhờ ông đứng ra đại diện cho bà T1 trong vấn đề thi công nhà vì bà nhận thấy Công ty Kim Phúc L1 đã bộc lộ nhiều hạn chế như: không đủ năng lực về tài chính, không đủ năng lực về chuyên môn, kỷ thuật về xây dựng, hiểu biết pháp luật hạn chế những quy định về trách nhiệm đối với đơn vị thi công công trình, cố tình phớt lờ và không khắc phục hạn chế khi được chủ đầu tư nhắc nhở. Trước tình hình nêu đó, ngày 14/09/2022, bà T1 đã có văn bản nhắc nhở gửi Công ty T5 đề nghị khắc phục và Công ty cam kết khắc phục.

Tuy nhiên, đến ngày 20/09/2022 là ngày đổ bê tông sàn nền (trễ 3 ngày so với cam kết), ông C2 đại diện Công ty T5 không đến công trình, không ai hướng dẫn công nhân thi công. Ngày 21/09/2022 Công ty T5 đã đơn phương chấm dứt hợp đồng thi công mà không có bất kỳ văn bản nào gửi đến bà T1.

Ngoài ra, ông hoàn toàn đồng ý với lời trình bày của bà Đồng đại diện cho bà T1 không yêu cầu gì thêm.

Vụ án được Tòa án cấp sơ thẩm kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hoà giải, nhưng các đương sự không thoả thuận được với nhau Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 101/2023/DS-ST ngày 25 tháng 9 năm 2023 và Quyết định số 31/2023/QĐ-SCBSBA ngày 18/10/2023 sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện B đã căn cứ Điều 26, 34, 37, 39, 147, 157, 158, 165, 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 385, 401, khoản 2 Điều 423, Điều 427 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 138, 139 và 140 Luật Xây dựng; Điều 12, 26, 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp và quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

  1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện Công ty Trách nhiệm hữu hạn T5 về việc yêu cầu hủy Hợp đồng xây dựng nhà ngày 23/8/2022 với bà Đoàn Mộng Đài T1.
  2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Trách nhiệm hữu hạn T5 về việc yêu cầu bà Đoàn Mộng Đài T1 có nghĩa vụ thanh toán số tiền 118.322.000 đồng.
  3. Về án phí dân sự sơ thẩm:

3.1. Công ty Trách nhiệm hữu hạn T5 phải chịu 5.916.100 đồng khấu trừ 3.258.000 đồng đã nộp theo Biên lai thu số 0009703 ngày 04/4/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện B. Công ty Trách nhiệm hữu hạn T5 phải nộp tiếp 2.658.100 đồng.

3.2. Bà Đoàn Mộng Đài T1 phải chịu 300.000đồng.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về quyền và nghĩa vụ thi hành án, quyền kháng cáo của các đương sự.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 02/10/2023, nguyên đơn Công ty Trách nhiệm hữu hạn T5 làm đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, các đương sự không thoả thuận được với nhau, nguyên đơn Công ty Trách nhiệm hữu hạn T5 do bà Nguyễn Thị Kim N đại diện vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án về Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án, trình bày cho rằng, trong hợp đồng xây dựng nhà ký ngày 23/8/2022, bà Đài T1 không trực tiếp ký vào hợp đồng nên đề nghị cho giám định chữ ký của bà Đài T1. Hợp đồng được ký kết giữa các bên không phù hợp với thực tế không có khả năng thi công. Mặc dù, sau khi ký kết hợp đồng, ông Nguyễn Trọng Tuấn C2 là thành viên của Công ty T5 trực tiếp thực hiện hợp đồng đến ngày 21/9/2022 thì ngưng thi công nhưng phía ông Huỳnh Văn G vẫn tiếp tục cung cấp vật tư xây dựng cho bà Đài T1. Toà án cấp sơ thẩm chưa tiến hành đối chất làm rõ số lượng vật tư ông G cung cấp xây dựng công trình đã xét xử bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của phía nguyên đơn là chưa có cơ sở.

Bị đơn bà Đoàn Mộng Đài T1 do bà Đặng Thị Thành Đồng đại diện không đồng ý với yêu cầu kháng cáo của phía nguyên đơn, trình bày cho rằng, việc thực hiện và thanh toán hợp đồng theo từng giai đoạn, quá trình thi công công trình, bà Đài T1 cũng đã thanh toán số tiền nhiều hơn số tiền phía Công ty T5 đã thực hiện hợp đồng. Đối với hợp đồng xây dựng nhà ngày 23/8/2022 được giao kết giữa bà Đài T1 và Công ty T5, bà Đài T1 không trực tiếp ký tên vào hợp đồng, mà người ký tên vào hợp đồng là ông Đặng Văn C1, nhưng ông C1 ký tên theo yêu cầu của bà T1 và bà T1 đồng ý với nội dung của hợp đồng được giao kết.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Công ty Cổ phần S do ông Đoàn C đại diện và ông Huỳnh Văn G trình bày cho rằng, ông G mua vật tư của ông Đoàn C cung cấp xây dựng công trình của bà Đài T1 theo yêu cầu của Công ty T5, hiện phía Công ty T5 còn nợ ông G số tiền vật tư hơn 40.000.000 đồng vẫn chưa thanh toán, sau đó ông Giàu c cung cấp vật tư cho bà Đài T1, hiện số vật tư cung cấp với số tiền là 90.000.000 đồng, ông G còn nợ lại ông Đoàn C chưa thanh toán. Ông G cho rằng, số vật tư bà Đài T1 sử dụng xây dựng nhà phải có trách nhiệm thanh toán.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc chấp hành pháp luật trong giai đoạn xét xử phúc thẩm cho rằng: Toà án cấp phúc thẩm và các đương sự chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Kháng cáo của nguyên đơn Công ty Trách nhiệm hữu hạn T5 trong thời hạn luật định, hợp lệ nên đề nghị được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

Xét yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn Công ty Trách nhiệm hữu hạn T5, đề nghị Toà án cấp phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm thấy rằng:

Đối với yêu cầu của Công ty, yêu cầu giám định chữ ký, chữ viết của bà Đoàn Mộng Đài T1 trong hợp đồng xây nhà ngày 23/8/2022. Xét thấy, tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện hợp pháp của bà T1 trình bày thừa nhận bà T1 thống nhất đồng ý cho ông C1 ký tên vào hợp đồng, sau đó Công ty có tiến hành thi công và hai bên thống nhất hủy hợp đồng nên yêu cầu của Công ty là không có cơ sở chấp nhận.

Đối với yêu cầu của Công ty yêu cầu giám định khối lượng vật tư công trình của bà T1 mà Công ty T5 đã thi công, xét thấy, Công ty T5 đã tự ngưng thi công không thông báo cho bà T1 và hai bên cũng không tiến hành thống nhất khối lượng công việc mà Công ty T5 đã thực hiện như thế nào theo hợp đồng. Do đó yêu cầu này của Công ty là không có cơ sở để thực hiện.

Đối với yêu cầu khởi kiện của Công ty T5 yêu cầu bà T1 trả khoản tiền vật tư là 118.322.000 đồng. Xét thấy, tại mục I trong hợp đồng xây dựng nhà ngày 23/8/2022 giữa bà Đoàn Mộng Đài T1 (bên A) và Công ty TNHH T5 (bên B) thể hiện “Bên A đồng ý giao và bên B đồng ý nhận thi công xây dựng một căn nhà đã được bên A thiết kế hoàn chỉnh, theo hình thức giao trọn gói xây dựng thô. Định nghĩa giao trọn gói xây dựng thô: Bên nhà thầu chịu tất cả các chi phí vật tư và nhân công từ khâu dọn dẹp mặt bằng, ép cọc, móng cà kiềng, xây tô hoàn chỉnh các tầng, khung sườn và lợp hoàn chỉnh mái ngói, bao gồm những vật tư như hệ thống cấp thoát nước, hệ thống điện âm tường và bồn chứa nước âm mặt đất và moter bơm đầy lê tầng lầu. Trong đó bao gồm luôn nhân công đến hoàn thiện công trình”. Bà T1 và ông C2 đều xác nhận Công ty T5 có khó khăn về tài chính nên yêu cầu bà T1 ứng tiền thanh toán thay cho Công ty các khoản mua nguyên vật liệu, như vậy phía Công ty đã vi phạm thỏa thuận trong hợp đồng xây dựng ngày 23/8/2022. Tại “Biên bản làm việc với Công ty T5” ngày 14/9/2022 có chữ ký của ông C2 và ông C1, ông C2 đại diện Công ty đã thừa nhận toàn bộ những sai sót trong quá trình thi công công trình bao gồm về tài chính, về nhân công và chỉ huy công trình, tiến độ công trình và an toàn lao động. Ông C2 đại diện Công ty T5 “cam kết khắc phục ngay những tồn tại trên, đồng thời đồng ý cho chủ đầu tư phán quyết theo quyền lợi của mình, mọi tổn thất rủi ro bên B hoàn toàn chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại”. Từ đó nhận thấy Công ty T5 đã vi phạm các thỏa thuận tại mục I và mục III trong Hợp đồng xây dựng. Công ty đã ngưng thi công từ ngày 21/9/2022, Công ty cho rằng đã gửi Biên bản thanh lý Hợp đồng xây dựng nhà cho bà T1, nhưng Công ty T5 không có chứng cứ thể hiện bà T1 nhận được Biên bản thanh lý trên. Nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận bà T1 đã thanh toán thay cho Công ty T5 khoản tiền là 98.860.000 đồng; ông C2 đã nhận tạm ứng của bà T1 44.000.000 đồng để trả tiền nhân công và bà T1 đã trả số tiền thuê K là 8.000.000 đồng. Như vậy, Công ty T5 đã vi phạm các điều khoản trong hợp đồng xây dựng và đã đơn phương chấm dứt hợp đồng mà không thông báo và nêu rõ lý do, cũng như không xác định được bên bà T1 có lỗi gì dẫn đến việc đơn phương chấm dứt hợp đồng của Công ty T5. Bản án sơ thẩm tuyên không chấp nhận yêu cầu của Công ty T5 về việc buộc bà T1 trả 118.322.000đồng là có căn cứ.

Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của Công ty Trách nhiệm hữu hạn T5, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Kháng cáo của nguyên đơn Công ty Trách nhiệm hữu hạn T5 được thực hiện đúng quy định tại Điều 272, 273, 276 Bộ luật Tố tụng dân sự nên được chấp nhận để xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Nguyên đơn Công ty Trách nhiệm hữu hạn T5 khởi kiện tranh chấp hợp đồng thi công xây dựng công trình là nhà ở với bà Đoàn Mộng Đài T1, yêu cầu huỷ hợp đồng xây dựng nhà và yêu cầu bà T1 thanh toán số tiền vật tư còn nợ là 118.322.000 đồng. Toà án cấp sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu huỷ hợp đồng thi công xây dựng nhà của phía nguyên đơn nhưng bác yêu cầu của nguyên đơn yêu cầu bà Đài T1 thanh toán số tiền vật tư còn nợ nên nguyên đơn kháng cáo.

[3] Căn cứ vào hợp đồng xây dựng nhà ngày 23/8/2022 được các bên đương sự thừa nhận thì giữa Công ty Trách nhiệm hữu hạn T5 và bà Đoàn Mộng Đài T1 có xác lập giao dịch hợp đồng thi công xây dựng công trình là nhà ở, theo đó bên Công ty Trách nhiệm hữu hạn T5 có trách nhiệm thi công xây dựng nhà ở do bà Đài T1 làm chủ đầu tư với giá trọn gói là 608.500.000 đồng. Thời hạn thi công trong 60 ngày từ ngày 05/9/2022. Bà Đài T1 có trách nhiệm thanh toán cho Công ty T5 trong 5 đợt, đợt 1 thanh toán 100% giá trị tiền ép cọc ngay sau khi ép cọc xong, đợt 2 khi bên nguyên đơn xây dựng hoàn thành phần móng và đà kiềng thì thanh toán 50.000.000 đồng; đợt 3 thanh toán 150.000.000 đồng khi bên Công ty T5 xây dựng từ đổ sàn dưới đến xây tô hoàn chỉnh tầng 1; đợt 4 thanh toán 200.000.000 đồng khi bên Công ty T5 xây dựng từ đổ sàn tầng 2 và xây tô hoàn chỉnh tầng 2; đợt 5 thanh toán 100.000.000 đồng khi xây dựng hoàn thành lợp mái ngói; còn lại 2,5% bảo hành thanh toán sau 12 tháng.

[4] Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim N trình bày cho rằng, trong hợp đồng xây dựng nhà ngày 23/8/2022, không phải do bà Đài T1 ký tên nên yêu cầu huỷ bản án sơ thẩm giao hồ sơ vụ án về Tòa án cấp sơ thẩm cho giám định chữ ký của bà Đài T1. Đồng thời hợp đồng ngày 23/8/2022 không phù hợp thực tế, không khả thi về khối lượng công trình và khả năng tài chính của Công ty T5. Xét thấy rằng, hợp đồng xây dựng nhà ngày 23/8/2022 được giao kết giữa Công ty T5 và bà Đài T1, trong hợp đồng có chữ ký xác nhận của bà T1, bà T1 cùng người đại diện hợp pháp của bà T1 thừa nhận người ký tên trong hợp đồng chuyển nhượng không phải là bà T1 mà là ông Đặng Văn C1, ông C1 ký tên theo yêu cầu của bà T1 và bà T1 đồng ý với toàn bộ nội dung của hợp đồng nên không cần tạm ngừng phiên tòa hoặc huỷ bản án sơ thẩm để cho giám định chữ ký của bà T1. Bà N đồng thời cho rằng, hợp đồng xây dựng nhà ngày 23/8/2022 không phù hợp thực tế, tuy nhiên sau khi giao kết hợp đồng thi công xây dựng công trình, các bên tiến đến thực hiện hợp đồng và không có bất cứ thỏa thuận nào khác nên cũng không chấp nhận trình bày của phía nguyên đơn về giá trị không phù hợp thực tế của hợp đồng.

[5] Quá trình thực hiện, bà Đài T1 tạm ứng cho Công ty T5 số tiền 5.000.000 đồng. Sau 2 lần ép cọc vào ngày 6/9/2022 và ngày 13/9/2022, bà Đài T1 đã tự thanh toán cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn Đ2 số tiền 98.860.000 đồng.

Tuy nhiên do phía thi công Công ty T5 bộc lộ nhiều thiếu sót nên việc thi công không thực hiện đúng tiến độ, việc thiếu sót này được ông Nguyễn Trọng Tuấn C2 là một trong hai thành viên của Công ty T5 thừa nhận trong biên bản ngày 14/9/2022 cam kết sẽ khắc phục. Đối với số tiền nhân công, bà Đài T1 cũng tự thanh toán 44.000.000 đồng do Công ty T5 không đủ năng lực về tài chính, bà T1 cũng đồng thời thuê kobe thu dọn bê tông vụn với số tiền 8.000.000 đồng, các khoản chi phí này lẽ ra bên thi công với gói thi công trọn gói phải thực hiện. Theo thoả thuận trong hợp đồng thì bà Đài T1 thanh toán đợt 2 số tiền 50.000.000 đồng khi bên Công ty T5 xây dựng hoàn thành phần móng và đà kiềng, do phía Công ty T5 chưa thực hiện thi công đã tự chấm dứt hợp đồng nên bà Đài T1 không vi phạm hợp đồng. Các phần công trình sau đó bà T1 đã tự thực hiện hoàn thành công trình và các bên thực tế đã chấm dứt hợp đồng nên Toà án cấp sơ thẩm đã huỷ hợp đồng thi công xây dựng công trình giữa hai bên là có căn cứ.

[6] Về số tiền vật tư mà Công ty T5 yêu cầu bà Đài T1 thanh toán gồm tiền bêtông đổ tầng trệt của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Đ2 là 35.300.000 đồng; tiền vật tư thanh toán cho cửa hàng vật tư của ông Huỳnh G 65.762.000đồng; tiền vật tư thanh toán cho Công ty Cổ phần S 14.050.000 đồng; tiền vật tư thanh toán cho Hộ kinh doanh cá thể H 8.210.000đồng. Các khoản tiền này phía bà Đài T1 không thừa nhận, những người liên quan trình bày đã bán vật tư cho Công ty T5 nhưng đồng thời phía Công ty cũng thừa nhận thi công nhiều công trình khác, bà T1 không xác nhận vào khối lượng vật tư thi công nên cũng không có cơ sở chấp nhận yêu cầu kháng cáo của phía nguyên đơn. Nguyên đơn kháng cáo không xuất trình chứng cứ mới nên không có cơ sở xem xét.

[7] Trong quá trình xét xử, đại diện nguyên đơn yêu cầu giám định khối lượng vật tư phía bà T1 sử dụng xây dựng công trình, tuy nhiên việc giám định khối lượng vật tư bà T1 sử dụng không phải là căn cứ để xem xét cho yêu cầu của nguyên đơn, nguyên đơn phải chứng minh vật tư do phía nguyên đơn cung cấp, và nguyên đơn đã hoàn thành giai đoạn nào của quá trình thi công. Do phía nguyên đơn đã đơn phương chấm dứt hợp đồng, không chứng minh được việc hoàn thành trách nhiệm thi công nên không có căn cứ để xem xét. Vì vậy cũng không cần phải huỷ bản án sơ thẩm giao hồ sơ vụ án về Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo yêu cầu của phía nguyên đơn [8] Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở và cũng phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[9] Về án phí phúc thẩm: nguyên đơn kháng cáo không được chấp nhận phải chịu án phí phúc thẩm theo Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn Công ty Trách nhiệm hữu hạn T5. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 101/2023/DS-ST ngày 25 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện B.

Căn cứ Điều 26, 37, 39, 147, 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 385, 401, khoản 2 Điều 423, Điều 427 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 138, 139 và 140 Luật Xây dựng; Điều 26, 27, 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp và quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

  1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện tranh chấp hợp đồng thi công xây dựng công trình của Công ty Trách nhiệm hữu hạn T5 đối với bà Đoàn Mộng Đài T1.

Huỷ Hợp đồng xây dựng nhà ngày 23/8/2022 được giao kết giữa bà Đoàn Mộng Đài T1 với Công ty Trách nhiệm hữu hạn T5.

  1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Trách nhiệm hữu hạn T5 về việc yêu cầu bà Đoàn Mộng Đài T1 có nghĩa vụ thanh toán số tiền 118.322.000 đồng.
  2. Về án phí:

3.1. Công ty Trách nhiệm hữu hạn T5 phải chịu 5.916.100đồng án phí dân sự sơ thẩm và 300.000đồng án phí dân sự phức thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp là 3.258.000 đồng đã nộp theo Biên lai thu số 0009703 ngày 04/4/2023 và 300.000đồng tạm ứng án phí kháng cáo đã nộp theo Biên lai số 0010393 ngày 10/10/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện B. Công ty Trách nhiệm hữu hạn T5 phải nộp tiếp 2.658.100 đồng.

3.2. Bà Đoàn Mộng Đài T1 phải chịu 300.000đồng án phí dân sự sơ thẩm.

  1. Về quyền và nghĩa vụ thi hành án: trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sựthì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
  2. Về hiệu lực của bản án: bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

 

Nơi nhận:

TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM

- TANDCC tại Tp.HCM;

THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

- VKSND tỉnh Long An; 

- TAND huyện B;

 

- Chi cục THADS huyện B;

- Các đương sự;

 

- Lưu hồ sơ, án văn.

Lê Thị Kim Nga

 

5. Bản án XX/2024/KDTM-PT ngày 27/02/2024 về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá

https://docs.google.com/document/d/197Cx2utt35AOVsCBoQCwMqTGXkbB5WYE/edit?usp=sharing&ouid=102047713431837797912&rtpof=true&sd=true

 

TÒA ÁN NHÂN DÂN

THÀNH PHỐ HÀ NỘI

------------------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

------------------

Bản án số: ....../2024/KDTM - PT

Ngày: 27/02/2024

V/v : Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá

 

 

NHÂN DANH 

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:

Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Lê Thúy Linh.

Các Thẩm phán:                         Bà Phạm Thị Mai  

                                                   Ông Nguyễn Xuân Tuấn 

- Thư ký phiên tòa: Bà Lê Thị Thuỳ Dương là Thư ký Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội 

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội tham gia phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Kim Thanh - Kiểm sát viên.

Ngày 27/02/2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án Kinh doanh thương mại thụ lý số: 285/2023/TLPT-KDTM ngày 19 tháng 12 năm 2023 về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá do bản án Kinh doanh thương mại sơ thẩm số 60/2023/KDTM-ST ngày 28 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội bị kháng cáo theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 36/2024/QĐ-PT ngày 12 tháng 01 năm 2024 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Công ty cổ phần H5

Địa chỉ: B đường T, tổ A phường Đ, thành phố L, tỉnh Lai Châu.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Văn N, Chức vụ: Giám đốc

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Tuấn A, sinh năm 1992; địa chỉ: số H tổ C phường Q, quận H, Hà Nội và ông Dương Văn D, sinh năm 1993; địa chỉ: Số nhà C đường X, phường X, quận B, Hà Nội (Văn bản ủy quyền ngày 11/7/2022); có mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Dương Đức T và ông Vũ Văn M - Luật sư Công ty L; Địa chỉ: Số A, ngõ B, đường T, phường T, quận C, thành phố Hà Nội; vắng mặt.

Bị đơn: Công ty TNHH K4 Địa chỉ: Số C, ngách E, ngõ F phố C, phường Q, quận C, thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Thế K, Giám đốc

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị Việt H1 và bà Nguyễn Thị Lan H2 - Công ty L1; Địa chỉ: Tầng E, tòa nhà V, số E L, phường T, quận B, thành phố Hà Nội (theo Giấy ủy quyền số 108/GUQ-K4 ngày 10/8/2022).

(Bà Nguyễn Thị Việt H1 và bà Nguyễn Thị Lan H2 có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, Nguyên đơn trình bày:

Ngày 12/04/2022, Công ty cổ phần H5 (sau đây gọi tắt là “Công ty H5”) và Công ty TNHH K4 (sau đây gọi tắt là “Công ty K4”) ký Hợp đồng mua bán hàng hóa số 12/04- 2022/HĐTM-HTC (sau đây gọi tắt là Hợp đồng) về việc mua bán bóng bay Tai Cheng với tổng giá trị hợp đồng là 2.500.000.000 đồng. Theo đó, trong thời hạn 03 ngày sau khi ký Hợp đồng, Công ty H5 có trách nhiệm thanh toán cho Công ty K4 70% giá trị hợp đồng (tương ứng với số tiền 1.750.000.000 đồng). Ngày 13/4/2022, theo đề nghị của ông Nguyễn Thế K - Người đại diện theo pháp luật của Công ty K4, Công ty H5 đã chuyển số tiền 1.750.000.000 đồng vào tài khoản cá nhân của ông K. Sau đó, ông K xác nhận với Công ty H5 về việc đã chuyển số tiền nêu trên vào tài khoản Công ty K4 để thực hiện Hợp đồng. Tuy nhiên, đến ngày 21/4/2022, Công ty H5 bất ngờ nhận được Công văn số 006/CV ngày 19/4/2022 của Công ty K4 thông báo về việc hủy Hợp đồng mà không đưa ra được lý do chính đáng và căn cứ pháp lý. Việc Công ty K4 đơn phương chấm dứt hợp đồng là vi phạm quy định của pháp luật, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty H5. Theo quy định tại khoản 2.5, khoản 2.6 Điều 2 của Hợp đồng, Công ty K4 có trách nhiệm hoàn trả số tiền Công ty H5 đã thanh toán, bởi thường thiệt hại và chịu phạt vi phạm hợp đồng Sau đó, đến ngày 07/5/2022, ông K tự ý chuyển số tiền 1.750.000.000 đồng vào tài khoản cá nhân của ông Hà Tiến D1- Người đại diện theo pháp luật (cũ)của Công ty H5 với lý do chuyển lại số tiền bị chuyển nhầm tài khoản. Đồng thời, Công ty K4 cũng không đồng ý bồi thường thiệt hại và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo thỏa thuận do đã đơn phương chấm dứt Hợp đồng trái pháp luật.

Vì vậy, Công ty H5 làm Đơn khởi kiện Công ty K4, đề nghị Tòa ánbuộc Công ty K4 thanh toán các khoản tiền sau:

  1. Thanh toán tiền bồi thưởng thiệt hại tương ứng với số tiền Công ty H5 đã thanh toán cho Công ty K4 là 1.750.000.000 đồng.
  2. Thanh toán tiền phạt vi phạm hợp đồng tương ứng 8% phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm là: 2.500.000.000 đồng x 8% = 200.000.000 đồng.

Tổng số tiền Công ty H5 yêu cầu Công ty K4 thanh toán là: 1.950.000.000 đồng. Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 23/09/2023: Công ty H5 tự nguyện rút yêu cầu buộcCông ty K4 bồi thường thiệt hại tương ứng với số tiền H5 đã thanh toán cho Công ty K4 là 1.750.000.000 đồng. Nay chỉ yêu cầu Công ty K4 thanh toán tiền phạt vi phạm hợp đồng tương ứng 8% phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm là 200.000.000 đồng.

Bị đơn trình bày:

Ngày 12/4/2022, Công ty H5 và Công ty K4 ký Hợp đồng mua bán hàng hóa số 12/04-2022/HĐTM-HTC ngày 12/4/2022 (gọi tắt là "Hợp đồng”) thỏa thuận về việc mua bán bóng bay Tai Cheng với tổng giá trị Hợp đồng là 2.500.000.000 đồng (Bằng chữ: Hai tỷ năm trăm triệu đồng). Sau khi ký kết, Công ty H5 không thực hiện đúng các thoả thuận về thanh toán, do vậy Công ty K4 đã gửi thông báo chấm dứt hợp đồng vào ngày 19/4/2022 (07 ngày sau khi ký hợp đồng). Việc khởi kiện yêu cầu đòi bồi thường và phạt hợp đồng của Công ty H5 là không có căn cứ bởi các lý do sau đây:

Thứ nhất, Hợp đồng mua bán hàng hóa số 12/04-2022/HĐTM-HTC ngày 12/4/2022 giữa Công ty H5 và Công ty K4 (gọi tắt là "Hợp đồng") chưa phát sinh nghĩa vụ đối với Công ty K4 do H5 vi phạm về điều khoản thanh toán:

Tại khoản 2.1 Điều 2 của Hợp đồng quy định: "Bên A thanh toán 70% giá trị tiền hàng ghi tại Điều 1 của Hợp đồng trong vòng tối đa 03 (ba) ngày sau khi ký hợp đồng, tương ứng với số tiền 1.750.000.000 đồng cho bên B". Tuy nhiên, sau 03 (ba) ngày kể từ ngày ký Hợp đồng, Công ty H5 không thực hiện việc thanh toán số tiền trên cho Công ty K4.

Thời điểm ký hợp đồng là thời điểm dịch bệnh Covid đang diễn biến rất phức tạp, hàng hoá mua bán là hàng hoá mang tính chất đặc thù và định danh (thương hiệu) nên chỉ có một nhà cung cấp duy nhất, các bên cùng hiểu rằng để ký kết được hợp đồng sản xuất với nhà máy bên Trung Quốc thì Công ty K4 cần cử người sang trực tiếp nhà máy để làm việc. Do vậy, hai bên đã thống nhất, bên cạnh các nội dung đã thoả thuận trong hợp đồng thì ông D1 sẽ bằng tiền cá nhân của mình đặt cọc cho ông K số tiền tương ứng 1.750.000.000 đồng để ông K đủ tin tưởng cử người sang Nhà máy tại Trung Quốc. Việc đặt cọc bằng tiền cá nhân của ông D1 không liên quan gì đến Hợp đồng đã ký kết và đây là thoả thuận giữa các cá nhân với nhau. Trong quá trình trao đổi công việc, ông D1 cũng đã chủ động bàn bạc với Ông K rằng việc thanh toán vào tài khoản của Công ty theo Hợp đồng bên ông D1 sẽ có trách nhiệm xử lý sau, trước mắt ông K cứ làm việc với nhà máy để đảm bảo ký được hợp đồng sản xuất và có lịch giao hàng trước. Mọi vấn đề khó khăn hai bên sẽ cùng nhau trao đổi với mục đích là nhập được hàng về Việt Nam.

Tuy nhiên, đến ngày 19/4/2022, Công ty H5 vẫn không thực hiện việc thanh toán theo thoả thuận tại Hợp đồng, nên Công ty K4 không có cơ sở để ký kết hợp đồng chính thức với nhà máy tại Trung Quốc. Ngày 19/4/2022, Công ty K4 đã ra Công văn số 006/Cv ngày 19/4/2022 gửi Công ty H5 về việc hủy hợp đồng do Công ty K4 chưa nhận được số tiền đặt cọc theo thỏa thuận. Đến ngày 07/5/2022, ông K đã chủ động chuyển lại toàn bộ số tiền đã nhận từ ông D1 vào tài khoản cá nhân của ông D1.

Căn cứ vào khoản 2.1, 2.3 Điều 2; khoản 6.1 Điều 6 Hợp đồng 12/04- 2022/HĐTM-HTC ngày 12/4/2022 và các nội dung thoả thuận giữa hai bên, Công ty K4 khẳng định rằng Hợp đồng số 12/04-2022/HĐTM-HTC chưa phát sinh nghĩa vụ do của K1 do bên mua là Công ty H5 không thực hiện theo đúng các thoả thuận trong hợp đồng đã ký về điều khoản thanh toán mà không có lý do chính đáng. Tại hồ sơ Công ty H5 cung cấp cho Toà không có bất kỳ văn bản thoả thuận nào thống nhất về việc điều chỉnh phương thức thanh toán phù hợp với ý chí các bên cũng như phù hợp với quy định của pháp luật.

Thứ hai, lời khai của Nguyên đơn không đúng và không phù hợp với thực tế khách quan cũng như các quy định chung về Hợp đồng và nghĩa vụ dân sự:

- Tại Văn bản số 2204/2022/CV-HTC ngày 22/4/2022, Công ty H5 phúc đáp Công văn số 006/CV ngày 19/4/2022, theo đó, Công ty H5 cho rằng: “Sau khi các bên ký kết hợp đồng, ngày 13/4/2022 theo đề nghị của Ông Nguyễn Thế K, chúng tôi đã chuyển đủ số tiền cọc 1.750.000.000 đồng để thanh toán mua hàng hoá theo chỉ định của ông K. Theo xác nhận bằng tin nhắn của Ông K thì số tiền nêu trên vào dòng tiền của Q Công ty và chúng tôi đã hoàn thành nghĩa vụ thanh toán lần 1 theo Hợp đồng”.

- Tại Đơn mời Luật sư ngày 26/4/2022, Công ty H5 cung cấp thông tin: “Ngày13/4/2022, theo đề nghị của Ông Nguyễn Thế K, chúng tôi chuyển tiền thanh toán mua hàng vào tài khoản cá nhân của ông K. Sau đó ông K xác nhận đã chuyển số tiền mà chúng tôi đã thanh toán vào tài khoản Công ty K4 để thực hiện Hợp đồng”.

- Tại trang 2, dòng 8 từ trên xuống Vi bằng số 81/2022/VB-TPLTBG lập ngày 06/5/2022 của Thừa phát lại Phạm Hoàng P do Ông Hà Tiến D1 yêu cầu có khai: “Ngày 13/4/2022, theo đề nghị của Ông Nguyễn Thế K – người đại diện theo pháp luật Công ty K4, tôi đã chuyển 1.750.000.000 đồng tiền thanh toán mua bán hàng hoá theo đúng các điều khoản Hợp đồng nêu trên vào tài khoản cá nhân của ông K. Sau đó, ông K xác nhận đã nhận đúng, đủ số tiền trên và chuyển số tiền mà tôi thanh toán nêu trên vào tài khoản của Công ty K4 để thực hiện Hợp đồng”.

- Tại Đơn khởi kiện ngày 10/5/2022, Công ty H5 nêu: “Ngày 13/4/2022, theo đề nghị của Ông Nguyễn Thế K, chúng tôi chuyển tiền thanh toán mua hàng vào tài khoản cá nhân của ông K. Sau đó ông K xác nhận đã chuyển số tiền mà chúng tôi đã thanh toán vào tài khoản Công ty K4 để thực hiện Hợp đồng”.

- Tại Công văn số 1005/2022/CV-HTC ngày 10/5/2022, Công ty H5 tiếp tục khẳng định: “Ngày 13/4/2022, theo đề nghị của Ông Nguyễn Thế K, chúng tôi chuyển tiền thanh toán mua hàng vào tài khoản cá nhân của ông K. Sau đó ông K xác nhận đã chuyển số tiền mà chúng tôi đã thanh toán vào tài khoản Công ty K4 để thực hiện Hợp đồng”.

- Tại Bản tự khai ngày 28/6/2022, Ông Nguyễn Tuấn A, đại diện theo uỷ quyền của Công ty H5 khai: “Ngày 13/4/2022, theo đề nghị của Ông Nguyễn Thế K, chúng tôi chuyển tiền thanh toán mua hàng vào tài khoản cá nhân của ông K. Sau đó ông K xác nhận đã chuyển số tiền mà chúng tôi đã thanh toán vào tài khoản Công ty K4 để thực hiện Hợp đồng”.

Với tư cách là Người đại diện theo pháp luật của Công ty K4 và là người trực tiếp đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng, ông Nguyễn Thế K cam kết và khẳng định như sau:

Một là, ông K không có bất kỳ “đề nghị nào về việc H5 chuyển tiền thanh toán theo hợp đồng vào tài khoản cá nhân của ông K”.

Hai là, ông K xác nhận không việc có thoả thuận ông K phải chuyển số tiền ông D1 đã chuyển làm tin từ tài khoản cá nhân của ông D1 vào tài khoản cá nhân của ông K, sau đó ông K phải tự hợp thức hoá việc thanh toán bằng việc tự chuyển số tiền đó vào tài khoản của Công ty K4 như lời khai của Nguyên đơn.

Ba là, việc chuyển tiền từ tài khoản cá nhân của ông D1 vào tài khoản cá nhân của ông K và ông K có xác nhận đã nhận đủ là sự thoả thuận cá nhân giữa ông D1 và ông K. Theo đó, ông K có đủ cơ sở niềm tin để cử người sang nhà máy tại Trung Quốc để đàm phán hợp đồng trong giai đoạn dịch bệnh đang tăng cao. Về bản chất, ông D1 và ông K đều hiểu rằng, việc ký kết hợp đồng được với nhà máy tại thời điểm đó là rất khó khăn, và Hợp đồng số 12/04-2022/HĐTM-HTC ngày 12/4/2022 cũng là một trong những bước để Công ty K4 căn cứ pháp lý khi làm việc với nhà sản xuất.

Bốn là, các bên đều hiểu, các thoả thuận trong hợp đồng là thể hiện ý chí chủ quan của các chủ thể, các điều khoản đã thoả thuận là điều khoản có ý nghĩa bắt buộc thực hiện và nó làm phát sinh quyền và nghĩa vụ tương ứng. Cần đặt ra câu hỏi vì sao trường hợp các bên đã ký hợp đồng chính thức với nhau mà thay vì H5 chuyển tiền thanh toán từ tài khoản Hatico sang tài khoản của K1 theo quy định thì Ông D1 lại chuyển từ tài khoản cá nhân của mình sang tài khoản cá nhân của ông K. Ở đây, cần tách bạch hai mối quan hệ chủ thể giữa pháp nhân-pháp nhân và cá nhân-cá nhân kể cả khi các cá nhân đó là Đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Nhất là khi, ông K hoàn toàn bác bỏ lời khai một chiều của H4 và trong hồ sơ cũng không tồn tại bất kỳ một văn bản nào chứng minh cho lời khai là phù hợp.

Thứ ba, bác bỏ tính hợp pháp của Vi bằng số 81/2022/VB-TPLTBG lập ngày 06/5/2022 bởi Thừa phát lại Phạm Hoàng K2 theo yêu cầu của Ông Hà Tiến D1:

Ngày 08/11/2022, trong Phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải tại TAND quận Cầu Giấy, qua việc sao chụp các tài liệu, chứng cứ do phía Nguyên đơn là Công ty H5 cung cấp, Công ty K4 nhận thấy nội dung của Vi bằng số 81/2022/VB-TPLTBG lập ngày 06/5/2022 đã có sự thay đổi, không đầy đủ so với toàn bộ nội dung mà ông K và ông D1 đã trao đổi qua tin nhắn zalo từ ngày 12/4/2022. Trên cơ sở đối chiếu các nội dung, ông K đã tiến hành lập Vi bằng ghi nhận lại các nội dung tin nhắn giữa hai bên để làm chứng cứ giao nộp cho Toà án. Do đó, Công ty K4 yêu cầu Tòa án bác bỏ chứng cứ là Vi bằng số 81/2022/VB-TPLTBG lập ngày 6/5/2022 mà Nguyên đơn đã cung cấp, đồng thời tôn trọng những nội dung mà các bên đã thỏa thuận trong Hợp đồng.

Trên cơ sở các lập luận nêu trên tại phiên tòa đại diện ủy quyền của Công ty K4 đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty K4 thanh toán tiền phạt vi phạm hợp đồng tương ứng 8% phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm là: 2.500.000.000 VND x 8% = 200.000.000 đồng.

Tại bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 60/2023/KDTM-ST ngày 28/9/2023, Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội quyết định:

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần H5 đối với Công ty TNHH K4. Buộc Công ty TNHH K4 phải trả cho Công ty cổ phần H5 số tiền phạt vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa, cụ thể:

Thanh toán số tiền phạt vi phạm hợp đồng tương ứng 8% phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm là: 2.500.000.000 VNĐ x 8% = 200.000.000 đồng.

Đình chỉ yêu cầu của Công ty cổ phần H5 buộc Công ty TNHH K4 bồi thường thiệt hại tương ứng với số tiền đã thanh toán cho Công ty TNHH K4 là 1.750.000.000 đồng.

Ngoài ra, bản án còn quyết định về án phí,thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.

Không đồng ý với bản án sơ thẩm, ngày 29/9/2023, Công ty TNHH K4 có đơn kháng cáo, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội phát biểu quan điểm:

Về thủ tục tố tụng: Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội tiến hành thụ lý và giải quyết vụ án đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của thẩm phán, HĐXX và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, bị đơn đúng qui định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đơn kháng cáo của bị đơn trong thời hạn và hợp lệ.

Xét kháng cáo của bị đơn: Hợp đồng mua bán được các bên ký kết là tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật nên có hiệu lực pháp luật.

Nguyên đơn đã chuyển tiền đặt cọc 70% tổng giá trị hợp đồng vào tài khoản cá nhân của ông K vào ngày 13/4/2022. Tại biên bản hoà giải cấp sơ thẩm ông K xác nhận đồng ý để nguyên đơn chuyển tiền vào tài khoản cá nhân của mình. Việc thoả thuận này được các bên trao đổi qua tin nhắn điện thoại.

Ông K vừa là người đại diện theo pháp luật của bị đơn và xác nhận đã nhận tiền do nguyên đơn chuyển. Vì vậy Hợp đồng đã phát sinh nghĩa vụ phải thực hiện.

Tại phiên hoà giải ở cấp sơ thẩm, ông K trình bày do nguồn hàng Trung Quốc không đảm bảo, ông K3 không đảm bảo có nguồn hàng để cung cấp nên ông đã ban hành văn bản số 006 chấm dứt hợp đồng với nguyên đơn với lý do nguyên đơn vi phạm hợp đồng, không thực hiện chuyển tiền đặt cọc cho bị đơn.

Việc bị đơn đơn phương chấm dứt hợp đồng là không có căn cứ. Kháng cáo của bị đơn cho rằng việc tuyên bố chấm dứt hợp đồng do nguyên đơn vi phạm hợp đồng là không có cơ sở. Vì vậy không chấp nhận kháng cáo của bị đơn.

Đề nghị HĐXX: Căn cứ khoản 1 điều 308 Bộ luật tố tụng Dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội;

- Giữ nguyên bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm của Toà án nhân dân quận Cầu Giấy.

- Án phí xử lý theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên tòa, kết quả việc tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của kiểm sát viên, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Đơn kháng cáo của các đương sự nộp trong thời hạn quy định của pháp luật và đã nộp dự phí kháng cáo nên kháng cáo là hợp lệ.

[2]. Xét kháng cáo của Công ty TNHH K4:

Hợp đồng mua bán hàng hóa số 12/04-2022/HĐTM-HTC ngày 12/04/2022 được các bên ký kết trên cơ sở thoả thuận về việc mua bán bóng bay Tai Cheng, sản xuất tại Trung Quốc. Tổng giá trị hợp đồng là 2.500.000.000 đồng.

Điều 2: Thanh toán: Trong thời hạn 03 ngày sau khi ký Hợp đồng, Công ty H5 có trách nhiệm thanh toán cho Công ty K4 70% giá trị hợp đồng (tương ứng với số tiền 1.750.000.000 đồng).

Điều 3: Thời gian giao hàng tối đa 45 ngày tính từ ngày Công ty K4 nhận được số tiền thanh toán lần 1.

Thực hiện hợp đồng, ngày 13/4/2022, Công ty H5 đã chuyển số tiền 1.750.000.000 đồng vào tài khoản cá nhân của ông Nguyễn Thế K – Giám đốc công ty K4. Trước khi chuyển tiền đặt cọc, hai bên có thoả thuận chuyển số tiền đặt cọc này vào tài khoản cá nhân của giám đốc công ty K4 và được ông K đồng ý.

Ngày 19/4/2022, Công ty K4 có công văn số 006/CV thông báo hủy Hợp đồng với lý do Công ty chưa nhận được số tiền đặt cọc do H5 chuyển. Đồng thời ngày 7/5/2022 ông Nguyễn Thế K đã chuyển trả lại số tiền 1.750.000.000 đồng cho ông Hà Tiến D1 – Giám đốc công ty H5 với lý do chuyển lại số tiền bị chuyển nhầm tài khoản.

Việc lý do huỷ hợp đồng của công ty K4 là không cơ cơ sở bởi lẽ: Khi ký kết hợp đồng, ông K là đại diện theo pháp luật của công ty K4 cũng đồng ý để công ty H5 chuyển số tiền này vào tài khoản cá nhân của ông K. Sau đó ngày 16/4/2022 hồi 10h16’ ông K còn trao đổi qua Zalo với ông D1 “hiện tại người của anh đang ở nhà máy và đang chờ họ chốt ngày giao hàng”. Như vậy ông K đã liên hệ với nhà máy để thực hiện hợp đồng, không thắc mắc gì về việc chuyển tiền đặt cọc đồng nghĩa với việc ông K đồng ý với việc chuyển tiền của nguyên đơn. Tại biên bản hoà giải ngày 10/7/2023 tại Toà án nhân dân quận Cầu Giấy ông K trình bày:..“Nguồn hàng Trung Quốc bị gián đoạn vì dịch Covid 19, tôi không chắc chắn đảm bảo về nguồn hàng nên cung cấp số tài khoản cá nhân để ông D1 chuyển tiền đặt cọc giống như khoản tiền đảm bảo để mua hàng. Tuy nhiên tình hình đến ngày 19/4/2022 do nguồn hàng Trung Quốc không đảm bảo nên tôi đã gửi công văn 006/CV ngày 19/4/2022 để huỷ bỏ hợp đồng” Như vậy lý do huỷ hợp đồng của công ty K4 thực chất không đảm bảo nguồn hàng, không có hàng để giao, còn không phải do nguyên đơn vi phạm Hợp đồng vì chưa chuyển tiền đặt cọc bởi việc chuyển tiền vào tài khoản cá nhân đã được ông K đồng ý. Bị đơn cũng không chứng minh được việc không giao được hàng thuộc trường hợp bất khả kháng do nhà máy Trung Quốc phải ngừng sản xuất, thành phố nơi nhà máy S bị phong toả do dịch bệnh covid…. Do đó việc huỷ bỏ hợp đồng hoàn toàn do lỗi của bị đơn.

Theo quy định tại điều 2.5 và 2.6 của hợp đồng các bên thoả thuận việc chấm dứt hợp đồng trái pháp luật thì bên vi phạm phải bồi thường thiệt hại và chịu phạt vi phạm hợp đồng áp dụng mức tối đa theo luật định. Nay nguyên đơn chỉ yêu cầu phạt vi phạm và rút yêu cầu bồi thường thiệt hại. Mức phạt vi phạm hợp đồng án sơ thẩm áp dụng bằng 8% giá trị hợp đồng bị vi phạm: 2.500.000.000 đ x 8% = 200.000.000 đ là đúng quy định tại điều 300 Luật thương mại. Vì vậy không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị đơn.

Kháng cáo của bị đơn không được chấp nhận nên người kháng cáo phải chịu án phí KDTM phúc thẩm.

Từ những nhận định nêu trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điều 300, 301 Luật Thương mại 2005;

Căn cứ điều 30, 35, 147, 308 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Xử: Không chấp nhận kháng cáo của Công ty TNHH K4 Giữ nguyên bản án Kinh doanh thương mại sơ thẩm số 60/2023/KDTM-ST ngày 28/9/2022 của Toà án nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.

Về án phí Kinh doanh thương mại phúc thẩm: Công ty TNHH K4 phải chịu 2.000.000 đồng án phí KDTM phúc thẩm. Được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 2.000.000 đồng đã nộp theo biên lai số AA/2020/0019850 ngày 17/10/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.

Trường hợp bản án được thi hành án theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có Hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nơi nhận:

TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM

- VKSND Thành phố Hà Nội;

- TAND quận Cầu Giấy;

- VKSND quận Cầu Giấy;

- Cục THADS TP Hà Nội; 

- Chi cục THADS quận Cầu Giấy;

- Đương sự;

- Lưu HS, VP.

THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA







Lê Thúy Linh

 

Nội dung bài viết:

    Đánh giá bài viết: (285 lượt)

    Để lại thông tin để được tư vấn

    Họ và tên không được để trống

    Số điện thoại không được để trống

    Số điện thoại không đúng định dạng

    Email không được để trống

    Vấn đề cần tư vấn không được để trống

    Bài viết liên quan

    Phản hồi (0)

    Hãy để lại bình luận của bạn tại đây!

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo