Chủ thể nào có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo?

1. Cơ sở pháp lý về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo

- Bộ luật dân sự 2015

2. Quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo

Điều 124 Bộ luật dân sự quy định:

"1. Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che dấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu , còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch dó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan.

2. Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tranh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô hiệu"

3. Chủ thể nào có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo?

Giao dịch giả tạo chỉ mang tính hình thức, nội dung đích thực các bên mong muốn xảy ra chỉ nằm ở giao dịch được che giấu, từ mục đích các bên xác lập giao dịch không nhằm thiết lập quyền và nghĩa vụ với nhau nên giao dịch giả tạo mặc nhiên bị coi vô hiệu từ thời điểm xác lập, dù đã thực hiện hay chưa thực hiện giao dịch đều bị vô hiệu không phụ thuộc vào ý chí của các bên. Hơn nữa, giao dịch giả tạo không thể hiện đúng ý chí đích thực của các bên tham gia, nhưng lại có ảnh hưởng pháp lý rất lớn đến các chủ thể khác không tham gia giao dịch, đó là chủ thể thứ ba hoặc nhà nước, thường là ảnh hưởng về lợi ích vật chất mà chủ thể xác lập giao dịch giả tạo mong muốn được hưởng lợi.

Do tính chất và sự ảnh hưởng tiêu cực của giao dịch giả tạo đến cả quyền lợi của các chủ thể khác không tham gia giao dịch, nhằm bảo vệ lợi ích công (lợi ích của nhà nước và xã hội nói chung) mà pháp luật dân sự coi giao dịch giả tạo là giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối. Vì vậy không những chủ thể tham gia xác lập giao dịch mà các chủ thể khác nằm ngoài giao dịch cũng có quyền yêu cầu tuyên bố giao dịch giả tạo, đó là người thứ ba, cơ quan nhà nước có thẩm quyenf...

Không giống như các trường hợp vô hiệu khác như giao dịch do bị nhầm lẫn, lừa đối, đe dọa, cưỡng ép ... chỉ có các chủ thể có quyền và lợi ích liên quan đến giao dịch mới có quyền khởi kiện yêu cầu giao dịch dân sự vô hiệu, các giao dịch này chỉ trở nên vô hiệu khi có đơn yêu cầu của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và bị tòa án tuyên bố vô hiệu trong thời hạn 02 năm kể từ ngày giao dịch được xác lập (khoản 1 Điều 132 Bộ luật dân sự 2015). Ngay cả các quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo của pháp luật dân sự trước đây và hiện hành đều không hạn chế chủ thể có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự bị vô hiệu khi có đầy đủ chứng cứ chứng minh.

Giao dịch dân sự giả tạo đương nhiên bị vô hiệu từ thời điểm xác lập giao dịch, nên giao dịch có thể bị vô hiệu không phụ thuộc vào quyết định của Tòa án mà đương nhiên không có giá trị, Tòa án chỉ là cơ quan có thẩm quyền để ra quyết định tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu.

Chẳng hạn: Ông A mua nhà đất của bà B, với giá 3 tỷ ở vị trí 1 trong khu trung tâm của thành phố C. Để tránh phải nộp thuế thu nhập cá nhân và lệ phí trước bạ cao cho Nhà nước theo giá chuyển nhượng trên, nên ông A và bà B thỏa thuận lý hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với giá thấp là 600 triệu. Còn hợp đồng viết tay vẫn ghi giá trị thực tế nhận chuyển nhượng là 3 tỷ. Hợp đồng này được các bên công chứng theo quy định pháp luật. Nhưng khi các bên thực hiện thủ tục đăng ký biến động sang tên quyền sử dụng đất thì Văn phòng đăng ký đất đai thành phố C đã không chấp nhận Hợp đồng công chứng trên vì giá trị chuyển nhượng không những quá thấp so với giá thị trường mà còn thấp hơn bằng giá đất quy định của Nhà nước đối với vị trí lô đất ông A và bà B chuyển nhượng, cho rằng các bên đã thiết lập giao dịch giả tạo nên Hợp đồng này khong được văn phòng đăng ký đất đai chấp thuận hồ sơ hợp lệ để đăng ký biến động. Như vậy, Hợp đồng chuyển nhượng nhà đất giá 600 triệu là hợp đồng giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế với Nhà nước, nó đương nhiên bị vô hiệu kể từ thời điểm ký kết hợp đồng, cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà không pahir là Tòa án khi có căn cứ cũng có thể xác định và không chấp thuận giao dịch giả tạo này. Tuy nhiên cũng có trường hợp Hợp đồng chuyển nhượng nhà và đất trên được các bên thỏa thuận giá chuyển nhượng phù hợp với bảng giá đất theo quy định của nhà nước. Thì Văn phòng đăng ký đất đai vẫn chấp nhận đăng ký biến động cho hồ sơ chuyển nhượng đất trên. Nhưng chỉ khi hai bên xảy ra tranh chấp thì Tòa án là cơ quan có thẩm quyền xem xét tuyên bố Hợp đồng vô hiệu do giả tạo.

Hoặc trường hợp vì để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ trong hợp đồng vay trước đó với C, A đã ký với B Hợp đồng tặng cho nhà và sang tên quyền sử dụng cho B, nhưng Hợp đồng này chỉ ký kết trên danh nghĩa hình thức để A tẩu tán tài sản, không muốn trả nợ theo cam kết với C sẽ lấy nhà đất để đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ, trường hợp này C là người thứ ba bị trốn tránh nghĩa vụ trả nợ có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố Hợp đồng tặng cho nhà giữa A và B là vô hiệu.

4. Thời hiệu yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo

Khoản 3 Điều 132 Bộ luật dân sự 2015 quy định: "Đối với giao dịch dân sự quy định tại Điều 123 và Điều 124 của Bộ luật này thì thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu không hạn chế". Như vậy thời hiệu để các chủ thể yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự xác lập do giả tạo là không bị hạn chế, bất kể giao dịch mới được xác lập hay đã được xác lập nhiều năm thì đương sự vẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu.

Giao dịch dân sự xác lập có yếu tố giả tạo sẽ mặc nhiên bị vô hiệu ngay từ thời điểm xác lập giao dịch, các chủ thể có quyền và lợi ích liên quan khi phát hiện giao dịch dân sự vi phạm quy định tại Điều 124 thì có quyền không thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh mà không cần có sự tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu của Tòa án.

Giao dịch do giả tạo là giao dịch vô hiệu tuyệt đối do bản chất loại giao dịch này xâm phạm quyền lợi của chủ thể ngời giao dịch. Giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối bị coi là vô hiệu kể cả khi không có sự phán quyết của Tòa án. Phán quyết hay quyết định của Tòa án (nếu có) trong trường hợp này không thể coi có tính chất xét xử mà phải hiểu theo khía cạnh đơn thuần chỉ là hình thức công nhận sự vô hiệu của giao dịch dựa trên các quy định của pháp luật và chứng cứ được cung cấp.

5. Ý kiến trái chiều về thời hiệu yêu cầu tuyên bố giao dịch giả tạo vô hiệu

Việc quy định thời hiệu tuyên bố giao dịch giả tạo vô hiệu không bị hạn chế cũng gây ra những ý kiến trái chiều như sau:

Quy định thời hiệu yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự do giả tạo không bị hạn chế là có cơ sở hợp lý vì giao dịch giả tạo mục đích che giấu giao dịch thật và trốn  tránh người thứ ba, nên khi đã có yếu tố che giấu và trốn tránh thì rất khó có thể phát hiện và xử lý những giao dịch này, Hơn nữa các giao dịch này thường có đối tượng là tài sản lớn, tiềm ẩn nguy cơ xâm phạm quyền lợi về mặt tài sản rất lớn đối với cá nhân khác, hoặc nhà nước, nếu quy định thời hiệu hạn chế như các giao dịch khác rất có thể sẽ gây ra nhiều hệ lụy tổn thất lớn cho lợi ích công, lợi ích xã hội, lợi ích của chủ thể thứ ba không được bảo vệ triệt để. Các chủ thể xác lập sẽ tận dụng triệt để che giấu giao dịch giả tạo cho đến khi hết thời hiệu, điều này sẽ bỏ qua yếu tố giúp ngăn chặn hệ quả trên.

Có ý kiến khác lại cho rằng việc quy định thời hiệu không hạn chế đối với giao dịch vô hiệu do giả tạo là không có ý nghĩa về mặt thực tiễn và pháp lý. Bởi nếu quy định thời hiệu không hạn chế sẽ làm mất đi tính chính xác, rõ ràng của các chứng cứ chứng minh để đánh giá hiệu lực của giao dịch. Quy định này gây nên tình trạng mâu thuẫn với quy định tại Điều 236 Bộ luật dân sự 2015 về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu do chiếm hữu, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật: "Người chiếm hữu, người được lọi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác". Nếu tại thời điểm xác lập giao dịch, người xác lập giao dịch không biết hoặc không thể biết được hành vi xác lập của mình là vi phạm pháp luật. Tuy nhiên thì việc người chiếm hữu được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời gian khá dài 10 năm đối với động sản và 30 năm với bất động sản là pháp luật đã cho thời gian rất dài để chủ sở hữu có cơ hội tìm và đòi lại tài sản của mình, quá thời hạn này coi như chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản của mình, đây là điều hợp lý để xác lập quyền sở hữu khi chủ sở hữu không còn quan tâm hay mong muốn đòi lại tài sản.

Về vấn đề này, có quan điểm kiến nghị cần quy định thời hiệu tuyên bố giao dịch giả tạo vô hiệu với thời gian đủ dài phù hợp với mốc thời gian tại Điều 167 Bộ luật dân sự vẫn đảm bảo được chứng cứ chứng minh xem xét hiệu lực của giao dịch vừa tạo điều kiện cho các bên chủ thể ngoài giao dịch có thời gian hợp lý để phát hiện và xử lý tuyên bố giao dịch dân sự do giả tạo vô hiệu.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo