Đảng ta trước hết quyết tâm đổi mới tư duy của cán bộ, đảng viên trên hai phương thức tư duy; lý luận nhận thức; cơ chế chính trị. Phép biện chứng duy vật là công cụ đắc lực giúp Đảng ta đi sâu giải quyết ba vấn đề lớn liên quan đến đường lối đổi mới từ năm 1986 đến nay.

1. Cơ sở hoạch định đường lối đổi mới của Đảng ta
1.1 Kinh nghiệm lãnh đạo công cuộc đổi mới của Đảng Cộng sản Liên Xô Tính chủ quan, nóng vội, vi phạm các quy luật khách quan trong quá trình lãnh đạo đất nước (nhất là trên lĩnh vực kinh tế) là những đặc điểm quan trọng trong quá trình đổi mới của Đảng Cộng sản Liên Xô. Năm 1921, sau 4 năm thực hiện chính sách “Cộng sản thời chiến” huy động nhân lực, vật lực phục vụ chiến tranh, V.I.Lê-nin đã nhận ra những khuyết điểm, thiếu sót của Đảng Cộng sản Liên Xô về mặt tư tưởng. cho rằng có thể tiến ngay lên chủ nghĩa cộng sản, ông ta tung ngay ra chính sách kinh tế mới (NEP). Chính sách NEP của Đảng Cộng sản Liên Xô thể hiện rõ quan điểm duy vật biện chứng trong giải quyết những mâu thuẫn nội tại của nền kinh tế trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là, phải vận dụng đúng quy luật khách quan giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất, phải đổi mới phương thức quản lý kinh tế, cơ cấu lại các thành phần và loại hình kinh tế trong các ngành nghề để phát triển sản xuất, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào phát triển kinh tế - xã hội… Sau 3 năm thực hiện NEP đã giúp cho nền kinh tế Liên Xô phục hồi nhanh chóng và tạo đà phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, sau khi V.I.Lênin qua đời (năm 1924) những người lãnh đạo trong Đảng Cộng sản Liên Xô đã thay thế chính sách NEP bằng chủ trương xóa bỏ chế độ tư hữu, đẩy mạnh phong trào tập thể hóa nông nghiệp và thực hiện quốc hữu hóa toàn bộ các ngành công nghiệp, thương nghiệp, giao thông vận tải…; tiến hành quản lý kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, xóa bỏ kinh tế thị trường, thực hiện chế độ bao cấp một cách bình quân… và họ coi đó là một sự vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội trong điều kiện của nước Nga Xô viết. Có thể thấy, cơ chế quản lý tập trung cao độ khi đó cũng đã phát huy được sức mạnh của nhân dân bằng mệnh lệnh để phát triển kinh tế và tăng cường tiềm lực quân sự, quốc phòng để Hồng quân Liên Xô đánh bại quân đội phát xít giành chiến thắng trong Chiến tranh thế giới lần thứ II, làm cho uy tín của phe xã hội chủ nghĩa lên cao kéo dài đến tận những năm 80 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, điều đó cũng khiến các nhà lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô chủ quan, ngộ nhận rằng chủ nghĩa xã hội đã hoàn toàn thắng lợi và đưa ra lý luận về chủ nghĩa xã hội phát triển, đồng thời tuyên bố có thể đi lên chủ nghĩa cộng sản ở thời điểm đó. Đồng thời, các nước tư bản đã biết điều chỉnh để thích nghi, tranh thủ những thành quả của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang phát triển nhanh chóng, đưa nền kinh tế của mình vượt xa các nước xã hội chủ nghĩa khác. Thực tế đó đã tác động mạnh mẽ đến đời sống nhân dân Liên Xô, làm nảy sinh tư tưởng cải cách, đổi mới trong một số nhà lãnh đạo cấp tiến lúc bấy giờ và khi M.X. Gorbachev trở thành Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô. Liên minh chính thức phát động "cải cách". Nhưng thay vì thực hiện cải cách theo tinh thần NEP do V.I.Lênin đề ra trước đó, Đảng Cộng sản Liên Xô lại bị những kẻ cơ hội chủ nghĩa lợi dụng để “cải tổ” theo nghĩa phủ nhận chủ quyền. kiểu đa nguyên chính trị, phản đối đa đảng của phương Tây... đã làm cho phong trào dân chủ vô chính phủ lan tràn, vô nguyên tắc, dẫn đến bất ổn xã hội, xuất hiện nhiều phe phái tranh giành quyền lực, lợi ích. Hơn nữa, họ còn bị các thế lực thù địch, phản động mua chuộc, lợi dụng để thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” nhằm làm sụp đổ chủ nghĩa xã hội, khôi phục con đường tư bản chủ nghĩa. Sự kết thúc của sự nghiệp “cải cách” là vào năm 1991, sự tan rã của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và ở các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu. Đây là thất bại to lớn của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, nhưng cũng để lại bài học, kinh nghiệm sâu sắc cho những người cộng sản chân chính trong bảo vệ và kiên trì cuộc đấu tranh cách mạng theo chủ nghĩa Mác - Lênin phải luôn trung thành và nắm vững quan điểm duy vật biện chứng trong quá trình thực hiện đổi mới. Cần khẳng định rằng, sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu không phải là thất bại, sai lầm của của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, phép biện chứng duy vật nói riêng. Nhiều học giả ở các nước tư bản chủ nghĩa còn khẳng định rằng, điều đó là minh chứng cho thấy chủ nghĩa Mác - Lênin là đúng đắn, chỉ có những người cộng sản ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã không hiểu đúng, không vận dụng đúng trong quá trình lãnh đạo cách mạng.
1.2 Lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam Nhờ nắm vững phép biện chứng duy vật mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã đề ra đường lối cách mạng đúng đắn để lãnh đạo Cách mạng tháng Tám thành công, lập nên Nhà nước dân chủ cộng hòa đầu tiên ở Đông Nam Á (năm 1945); sau đó qua 9 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ lập lại hòa bình ở miền Bắc, Đảng ta đã tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (năm 1954), đồng thời lãnh đạo đấu tranh chống sự can thiệp của đế quốc Mỹ ở miền Nam. Trải qua 30 năm kiên trì kháng chiến, bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử thống nhất đất nước, Đảng ta chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước (năm 1975). Trước ảnh hưởng của hệ thống xã hội chủ nghĩa và uy tín của Liên Xô lúc bấy giờ, chúng ta đã rập khuôn theo mô hình Xô viết vào Việt Nam một cách máy móc, thiếu sự sáng tạo nên mặc dù cố gắng vận dụng phép biện chứng duy vật vào thực tiễn cách mạng. Đảng ta đã nhận thức được đặc điểm to lớn của Việt Nam là xuất phát điểm quá thấp, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ lạc hậu, kinh tế chậm phát triển, lại bị ảnh hưởng nặng nề từ chiến tranh… nhưng trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội chúng ta đã nôn nóng, đốt cháy giai đoạn như: đẩy quan hệ sản xuất lên trước một bước, đẩy nhanh việc cải tạo giai cấp tư sản, đẩy mạnh hợp tác hóa nông nghiệp, đưa hợp tác xã bậc thấp lên bậc cao một cách ồ ạt…; quản lý kinh tế bằng phương pháp tập trung, quan liêu, kế hoạch hóa, xóa bỏ thị trường, phân phối bao cấp một cách tràn lan; bộ máy nhà nước quan liêu, xa rời quần chúng… đã đưa đất nước rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, lạm phát kéo dài, sản xuất đình trệ, đất nước bị bao vây, cấm vận về kinh tế, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, lòng tin vào chế độ xã hội chủ nghĩa bị suy giảm nghiêm trọng. Thực tiễn đó đặt ra yêu cầu cấp bách là phải tiến hành cải cách, đổi mới trong quản lý kinh tế - xã hội. Trước tình hình đó, Đại hội lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đã đề ra chủ trương “đổi mới” một cách toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội: “Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng”(2). Dưới góc độ duy vật biện chứng, có thể thấy, đổi mới là một tất yếu lịch sử trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, là một chiến lược cách mạng, sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa của nước ta đi vào đúng quỹ đạo, phù hợp với quy luật khách quan của lịch sử.
2. Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong sự nghiệp đổi mới
Về mặt lý luận: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH của Đảng được thông qua tại Đại hội VII (1991) đã chỉ rõ: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam của mọi hoạt động. hành động”. Vì, chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết khoa học và cách mạng; nhấn mạnh quy luật vận động và phát triển của xã hội loài người tất yếu dẫn đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản; vạch ra con đường đúng đắn để giai cấp công nhân và lao động thế giới vùng lên làm cách mạng nhằm giải phóng mình và toàn thể nhân loại khỏi ách áp bức, bóc lột. Chủ nghĩa xã hội là lý tưởng cao cả mà nhân loại hằng mơ ước, chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết soi đường, dẫn dắt giai cấp công nhân và những người lao động tìm ra con đường cách mạng, biến ước mơ đó thành hiện thực. Về thực tiễn: sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu trên thực tế chỉ là sự sụp đổ của một mô hình xã hội chủ nghĩa hiện thực dẫn tới hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới bị tan rã chỉ là nhất thời, vì xu thế tất yếu của lịch sử nhân loại vẫn đang hướng tới một xã hội văn minh, tiến bộ hơn mà ở đó con người được giải phóng một cách triệt để, tự do phát triển một cách toàn diện. Do đó, không thể đồng nhất chủ nghĩa Mác - Lênin với mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu; hay đồng nhất sự tan rã của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu với sự phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin. Ngày nay chủ nghĩa tư bản vẫn đang trong quá trình tự điều chỉnh để thích nghi và phát triển trong điều kiện mới với những đặc điểm nổi bật như: toàn cầu hóa, kinh tế tri thức, tiến bộ vượt bậc của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư… Song những đặc điểm đó ngày càng khoét sâu mâu thuẫn nội tại cơ bản của chủ nghĩa tư bản mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã vạch ra, đó là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với tính chất chiếm hữu tư nhân của quan hệ sản xuất. Những giải pháp mà chủ nghĩa tư bản đang sử dụng để duy trì sự tồn tại dần vượt khỏi giới hạn thích nghi của nó. Chính những phương tiện mà chủ nghĩa tư bản tạo ra để duy trì sự tồn tại của mình lại là “cỗ xe không phanh” đang trên đà lao dốc đưa chủ nghĩa tư bản đến chỗ tự phủ định chính mình - Đó chính là biện chứng khách quan của lịch sử. Hay hiểu theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa tư bản hiện đại “thiết kế” chủ nghĩa xã hội với những tiền đề vật chất và những yếu tố thuận lợi để chủ nghĩa xã hội ra đời và phát triển ngay trong lòng nó. Điều này đặc biệt đúng với các nước tư bản phát triển cao. Nhưng các nước này không thể tự phát đi lên CNXH mà phải thông qua cách mạng xã hội của công nhân do giai cấp công nhân lãnh đạo mới lật đổ được ách thống trị của giai cấp công nhân ở giai cấp tư sản. Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản vẫn gay gắt. Mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với các nước thuộc địa cũ đã biến thành mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển với các nước đang phát triển, giữa các nước đế quốc chủ nghĩa, các tập đoàn tư bản độc quyền xuyên quốc gia, các trung tâm tư bản lớn vẫn còn đấu tranh gay gắt vì lợi nhuận. Mâu thuẫn giữa tư bản và lao động ở trong từng quốc gia và trên phạm vi quốc tế đang ngày càng được mở rộng, thành cuộc đấu tranh rộng rãi của các tầng lớp nhân dân chống lại giai cấp tư sản vì chủ nghĩa tư bản hiện đại có hiệu suất bóc lột giá trị thặng dư rất cao, với sự hỗ trợ đắc lực của khoa học công nghệ thì máy móc tự động hóa đang dần thay thế lao động chân tay làm cho nhân công ngày càng dư thừa, thất nghiệp… làm cho xã hội ngày càng có sự phân cực rõ rệt, khoảng cách giàu - nghèo ngày càng tăng. Tất cả những đặc điểm mới của chủ nghĩa tư bản hiện đại không hề làm mất đi bản chất bóc lột, bất công. Vì vậy, Đảng ta đã nhận định: “Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”(3) và “Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử qua 30 năm đổi mới khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử”(4).
3. Giải quyết những mối quan hệ biện chứng trong công cuộc đổi mới
Tổng kết 30 năm qua đổi mới, Đảng ta đã nhận thức và giải quyết 8 mối quan hệ lớn, đó là: quan hệ đổi mới, ổn định và phát triển; quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Điều đó cho thấy, trên cơ sở vận dụng phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã “xác định trước mối quan hệ hữu cơ, bản chất giữa tám mối quan hệ chủ yếu, đáp ứng yêu cầu của sự phát triển của các quốc gia có sự phụ thuộc lẫn nhau”. thống trị và nuôi dưỡng các mối quan hệ. Trong mọi mối quan hệ đều có hai mặt thống nhất và mâu thuẫn. Các mối quan hệ không chỉ tác động, ảnh hưởng lẫn nhau thông qua tác động nhân quả mà còn thấm nhuần, tác động lẫn nhau và quy định lẫn nhau. Điều quan trọng trong nhận thức về các quan hệ là mọi quan hệ đều thống nhất vì mục tiêu phát triển, nhất thiết phải thông qua đổi mới, phục vụ lợi ích cao nhất: phát triển đất nước, vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc(5). Từ việc nhận thức 8 mối quan hệ lớn và mối quan hệ hữu cơ giữa chúng, Đảng ta xác định rõ mục tiêu của thời kỳ hiện nay là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước như sau: “Phát triển kinh tế là trọng, xây dựng Đảng là then chốt, là khâu then chốt. phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên”(6). Điều đó giúp cho chúng ta thấy rõ: “Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân”(7). Thực tiễn của hơn 30 năm đổi mới cho thấy, việc vận dụng sáng tạo phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin vào giải quyết những vấn đề mâu thuẫn nội tại nảy sinh trong quá trình đổi mới là hoàn toàn phù hợp. Trên quan điểm duy vật biện chứng để tổng kết, đánh giá Đảng ta đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm quan trọng làm tiền đề, từ đó xác định phương hướng cho chặng đường tiếp theo của sự nghiệp đổi mới, đó là: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy vận dụng sáng tạo, phát triển, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, dự báo chính xác và kịp thời có chủ trương, chính sách xử lý hiệu quả những vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn, giải quyết tốt các mối quan hệ lớn phản ánh quy luật đổi mới và phát triển ở nước ta”(8). Trong công cuộc đổi mới hiện nay, việc nghiên cứu, quán triệt và vận dụng phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin vào giải quyết những vấn đề thực tiễn cách mạng đặt ra vừa là một khoa học, đồng thời là một nghệ thuật. Để triển khai một cách hiệu quả, đòi hỏi các thế hệ cách mạng hiện nay phải nắm được bản chất của phép biện chứng duy vật, không ngừng học tập và rèn luyện mới có thể vận dụng một cách đúng đắn phương pháp biện chứng duy vật vào giải quyết những vấn đề thực tiễn đang đặt ra mà không rơi vào ngụy biện, chiết trung… để thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội./.
Nội dung bài viết:
Bình luận