Xung đột pháp luật về hình thức của hợp đồng trong tư pháp quốc tế và kinh nghiệm cần biết

1. Thế nào là xung đột pháp luật về hợp đồng trong luật quốc tế? 

Xung đột pháp luật  hợp đồng trong luật quốc tế là hiện tượng  hai hay nhiều hệ thống pháp luật của các quốc gia khác nhau  có thể được áp dụng để điều chỉnh quan hệ hợp đồng. Vấn đề đặt ra là áp dụng  luật đất đai nào để xác định tính hợp pháp của hợp đồng này. 

 Việc xác định tính hợp pháp của hợp đồng phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Thứ nhất, việc xác định tính hợp pháp của hợp đồng dựa trên việc các bên có liên quan tuân thủ  các nguyên tắc chung khi giao kết và thực hiện hợp đồng. 

 Chẳng hạn, các nguyên tắc mà các bên phải tôn trọng là: tự do  hợp đồng nhưng không  trái pháp luật và đạo đức xã hội; nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác và trung thực (Điều 389 Bộ luật Dân sự năm 2005) trong giao kết và thực hiện hợp đồng. Nội dung  nguyên tắc này được quy định tại Điều 3 BLDS 2015. Cùng với việc tuân thủ các nguyên tắc chung của hợp đồng như đã nêu ở trên, tính hợp pháp của hợp đồng còn được xem xét dưới ba góc độ. Đó là hình thức của hợp đồng, nội dung của hợp đồng và năng lực giao kết hợp đồng của các bên tham gia. Về hình thức của hợp đồng trong luật quốc tế. Hình thức của hợp đồng được hiểu là phương tiện ghi chép, lưu trữ và truyền tải nội dung của hợp đồng hay hình thức của hợp đồng  là phương tiện để thể hiện, chứa đựng các điều khoản mà các bên đã thỏa thuận. Trên thực tế, sự thỏa thuận của các bên có thể được thể hiện trong nhiều hợp đồng, hợp đồng này sẽ vô hiệu nếu hợp đồng này do một hoặc cả hai bên giao kết, chủ thể không đủ điều kiện giao kết theo quy định của pháp luật. Như vậy, chỉ các chủ thể đáp ứng các điều kiện do pháp luật quy định  mới được giao kết một quan hệ hợp đồng nhất định. Trong tư pháp quốc tế, hiện tượng tranh chấp pháp lý trong việc xác định khả năng  của các chủ thể trong hợp đồng có yếu tố nước ngoài thường xuyên xảy ra.  2. Giải quyết tranh chấp pháp lý về hợp đồng theo pháp luật của một số nước 

 2.1 Tìm hiểu về hình thức hợp đồng  giải quyết tranh chấp 

 Đối với các nước Đông Âu, để giải quyết xung đột pháp luật về hình thức  hợp đồng, các nước này thường áp dụng luật nơi giao kết hợp đồng (Lex loci contractus) hoặc luật nơi thực hiện hợp đồng (Locus regit actum), giả định rằng luật của nơi ký kết hợp đồng sẽ được ưu tiên áp dụng. Theo đó, hợp đồng được giao kết ở đâu thì pháp luật  nước đó sẽ quyết định tính hợp pháp của hình thức hợp đồng hoặc hợp đồng được thực hiện ở đâu thì pháp luật  nước đó sẽ chi phối hình thức của hợp đồng. Quyền ưu tiên áp dụng luật nơi giao kết hợp đồng có nghĩa là trong trường hợp nếu hợp đồng được giao kết ở một nước nhưng được thực hiện ở một nước khác thì hình thức của hợp đồng được coi là hợp pháp nếu hình thức hợp đồng này hợp lệ. thay vì ký kết hợp đồng. Tuy nhiên, nếu hợp đồng không phù hợp về hình thức với luật nơi giao kết hợp đồng nhưng  về hình thức phù hợp với luật nơi thực hiện hợp đồng và không trái với pháp luật của nước nơi ra quyết định. nằm, hợp đồng  vẫn còn hiệu lực được coi là có giá trị pháp lý theo đó nó sẽ được thi hành. Quy định này hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc tự do ý chí, tự do thoả thuận của các bên. 

 Khi giao kết hợp đồng, các bên liên quan phải tôn trọng một số nguyên tắc nhất định, trong đó có nguyên tắc lựa chọn (Lex voluntatis). Theo nguyên tắc này, các bên tự do xác định quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình trên cơ sở hợp đồng. Các bên tự do thỏa thuận về các điều kiện ràng buộc quyền và nghĩa vụ của mình (trừ  trường hợp đặc biệt khi thỏa thuận đó vi phạm  điều cấm của  luật). Trong các thỏa thuận lựa chọn này nhằm mục đích chọn  luật áp dụng. Nếu các bên thỏa thuận chọn  luật áp dụng thì luật đó sẽ là luật nước ngoài đối với một hoặc  cả hai bên có liên quan. 

 Xét từ góc độ lý luận pháp lý cũng như thực tiễn pháp lý, trong trường hợp các bên tự do lựa chọn pháp luật áp dụng cho nội dung của hợp đồng thì việc áp dụng pháp luật do các bên lựa chọn là vi phạm  nguyên tắc pháp luật của quốc gia. tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng thì luật do các bên lựa chọn sẽ không được chấp nhận. Để tránh phải áp dụng pháp luật do các bên lựa chọn, cơ quan xét xử có thể áp dụng nguyên tắc “bảo lưu trật tự công cộng”. Theo nguyên tắc này, pháp luật  nước ngoài  không được áp dụng nếu hậu quả của việc áp dụng pháp luật nước ngoài vi phạm các nguyên tắc cơ bản của quốc gia nơi đặt cơ quan tư pháp. Tuy nhiên, thế nào là nguyên tắc pháp lý cơ bản lại chưa được pháp luật  các nước quy định  cụ thể, rõ ràng. Trong trường hợp  pháp luật do các bên thỏa thuận không được áp dụng do vi phạm nguyên tắc “bảo lưu trật tự công cộng” thì pháp luật của nước nơi giao kết hợp đồng (Lex loci contractus) hoặc pháp luật của tòa án nước đó. (Lex fori) hoặc luật mà hợp đồng có mối liên hệ chặt chẽ nhất (Lex propria). Luật nào được coi là có liên quan mật thiết với nhau? 

 

 Đối với các nước theo hệ thống pháp luật  lục địa, khi xác định các quan hệ pháp luật liên quan đến quyền nhân thân của một người thì áp dụng chung hệ thống pháp luật quốc tịch  của người đó (Lex nationalis). . Như vậy, việc xác định năng lực  hợp đồng của một người trong trường hợp này phụ thuộc vào quy định của pháp luật mà người này mang quốc tịch. Nếu đối tượng của hợp đồng đáp ứng các điều kiện pháp lý về nhân thân theo quy định của pháp luật  nước mà người đó mang quốc tịch thì hợp đồng mới đáp ứng một trong các điều kiện để hợp đồng phát sinh hiệu lực pháp luật. Ví dụ, Bộ luật tư pháp quốc tế Thụy Sĩ năm 1987 quy định: “năng lực pháp luật của một người do pháp luật Thụy Sĩ điều chỉnh” và “năng lực hành vi do pháp luật nơi cư trú điều chỉnh” - điều 4 của bộ luật quy định chung việc áp dụng luật (có hiệu lực  từ ngày 01 tháng 01 năm 2007). hay Bộ luật Tư pháp quốc tế của Bỉ 2004 quy định: “Trừ trường hợp luật này có quy định khác, pháp luật của nước mà cả hai người đều mang quốc tịch sẽ điều chỉnh tư cách và năng lực của những người đó”? Theo quy định của pháp luật Nhật Bản thì “Năng lực hành vi của một người được xác định bởi pháp luật của nước mà người đó mang quốc tịch. 

 

 

 Đối với các quốc gia theo hệ thống Thông luật  như Anh và Mỹ, khi xem xét năng lực pháp luật của một người, thường áp dụng luật nơi cư trú (Lex domicili) của người đó. Trong trường hợp này, việc xác định năng lực  hợp đồng của các bên liên quan sẽ căn cứ vào pháp luật của nước nơi người này cư trú. Nếu điều kiện  nhân thân của chủ thể hợp đồng phù hợp với pháp luật của nước nơi người này cư trú thì chủ thể này có quyền giao kết hợp đồng. 

  Như vậy, tùy trường hợp, khi xác định năng lực giao kết hợp đồng có yếu tố nước ngoài của các bên có thể áp dụng chung pháp luật quốc tịch (Lex nationalis) hoặc pháp luật nơi cư trú (Lex của Công ước Rome 1980). về Luật Áp dụng cho Nghĩa vụ Hợp đồng (ký ngày 19 tháng 6 năm 1980) (Công ước về Luật Áp dụng cho Nghĩa vụ Hợp đồng 1980), Quy tắc Rome I (có hiệu lực  ngày 17 tháng 6 năm 2008) về Quy định Rome I Quy định về Luật Áp dụng cho nghĩa vụ hợp đồng. 2.2 Giải quyết tranh chấp về hình thức  hợp đồng 

 Vấn đề hình thức của hợp đồng đã được Công ước Viên 1980 của Liên hợp quốc (CISG) đề cập tại Điều 11, Điều 29 và Điều 96. Theo đó, hợp đồng không phải là văn bản hoặc là đối tượng của bất kỳ yêu cầu  bằng văn bản nào khác. Hợp đồng có thể được chứng minh bằng bất kỳ phương tiện nào, kể cả bằng lời khai. Tuy nhiên, hình thức của hợp đồng có thể cần phải bằng văn bản nếu pháp luật của Quốc gia Thành viên yêu cầu hợp đồng phải bằng văn bản. Trong trường hợp hợp đồng được  lập thành văn bản, trong đó các bên đã thoả thuận rằng mọi  sửa đổi, bổ sung đối với hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản thì phải tuân thủ thoả thuận này.3 

 

 Bên cạnh Công ước Viên 1980 của Liên hợp quốc (CISG) như đã đề cập ở trên, một trong những điều ước quốc tế tiêu biểu về hợp đồng là Công ước Rome 1980 về Luật áp dụng cho các nghĩa vụ trong hợp đồng. Đó là Công ước được ký kết tại Rome ngày 19 tháng 6 năm 1980 và được áp dụng tại Liên minh châu Âu (European Union - EU). Tuy nhiên, căn cứ Quy định số 593/2008 (17/06/2008) các quy định của Công ước Rome 1980 trên đây đã được sửa đổi và thay thế bằng Quy tắc Rome I. Quy tắc Rome I được gọi là Quy tắc áp dụng đối với trách nhiệm pháp lý phát sinh từ hợp đồng. Để đánh giá di sản của quá trình phát triển một số điều khoản của Công ước Rome năm 1980 thành các điều khoản của Quy tắc Rome I, một số điều khoản của Công ước Rome năm 1980 sẽ được so sánh và phân tích trong chương này.  

 

 Điều 9 Công ước Rome 1980 quy định về hình thức của hợp đồng 

 

 - Trong trường hợp hợp đồng do các bên “ở các quốc gia khác nhau” giao kết thì hợp đồng sẽ được coi là hợp pháp  nếu tuân thủ các quy định của Công ước hoặc tuân theo pháp luật của “một trong các quốc gia”. các nước đó” (khoản 2 Điều 9).  - Theo Công ước Rome 1980, trong một số trường hợp nhất định, luật  nơi thực hiện  cũng có thể được áp dụng để xem xét tính hợp pháp về hình thức của hợp đồng nếu hành vi đó  ảnh hưởng đến pháp luật hợp đồng (khoản 4 Điều 9). 

  - Pháp luật của nước  nơi cư trú của người tiêu dùng sẽ được áp dụng để xác định tính hợp pháp  của hợp đồng nếu đó là hợp đồng cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho  người tiêu dùng (Khoản 5 Điều 9). 

  - Trường hợp giao kết hợp đồng liên quan đến bất động sản thì hình thức của hợp đồng phải phù hợp với pháp luật của nước nơi có bất động sản (khoản 6 Điều 9).  

 Kế thừa các quy định của Công ước Rome năm 1980, trong Quy chế Rome I, vấn đề về hình thức của hợp đồng được giải quyết tại Điều 11 của Quy chế. Như vậy, trong trường hợp hợp đồng mà các bên  “ở cùng một quốc gia” vào thời điểm ký kết thì hình thức của hợp đồng phải tuân theo quy định của Quy tắc Rome I hoặc tuân theo pháp luật nơi ký kết.  hợp đồng được ký kết. Nếu họ là các bên ký kết "ở các quốc gia khác nhau" tại thời điểm ký kết, hình thức của hợp đồng sẽ tuân theo các quy định của quy tắc Rome I, hoặc  luật của quốc gia nơi  một trong các bên ký kết tồn tại. các bên hoặc đại diện của họ tại thời điểm giao kết hợp đồng 

 

 Thứ hai, đối với điều ước quốc tế nhiều bên. Trong các điều ước quốc tế đa phương, việc áp dụng pháp luật đối với hợp đồng cũng được đặt ra. Có một số điều ước hợp đồng quốc tế  quy định việc lựa chọn luật trong trường hợp có xung đột pháp luật liên quan đến hợp đồng. Ví dụ: Công ước Viên 1980 (CISG), Công ước Rome 1980 và Quy tắc Rome I. 

 Công ước Viên năm 1980 của Liên hợp quốc về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (CISG), nếu theo nguyên tắc của luật quốc tế thì luật  áp dụng cho hợp đồng là luật của một nước ký kết, thì Công ước cũng được áp dụng cho quan hệ hợp đồng này (Khoản Ib, Điều 1 của Công ước Viên 1980). Theo quy định này, luật điều chỉnh hợp đồng  là các quy định của Công ước Viên 1980.  

 Trong một số trường hợp, căn cứ vào quy định  của  pháp luật quốc tế để xác định  luật áp dụng (khoản 2 Điều 7). Với quy định tại khoản Ib Điều 1 và khoản 2 Điều 7, có thể thấy, Công ước Viên 1980 của Liên hợp quốc vẫn coi việc áp dụng các nguyên tắc của tư pháp quốc tế để chọn  luật áp dụng là chủ yếu. Do đó, Công ước được áp dụng trong các trường hợp, theo các quy tắc của luật pháp quốc tế, luật  áp dụng là luật của Quốc gia ký kết. 

 Đối với Công ước Rome 1980: Việc lựa chọn luật để giải quyết xung đột pháp luật về nội dung của hợp đồng được Công ước Rome quy định tại Điều 3. Do đó, hợp đồng được điều chỉnh bởi  luật do các bên lựa chọn. Các bên có thể lựa chọn luật áp dụng cho toàn bộ hoặc một phần  hợp đồng (khoản 1 Điều 3). 

  Trong trường hợp các bên không  chọn luật, hợp đồng sẽ được điều chỉnh bởi luật của quốc gia có mối liên hệ chặt chẽ nhất. Việc xác định đâu là quan hệ mật thiết của hợp đồng căn cứ vào nhiều yếu tố  như: Điều ước quốc tế điển hình liên quan đến hợp đồng có yếu tố nước ngoài như Công ước Rome 1980, Quy tắc Rome I và trong nhiều điều ước quốc tế song phương về vấn đề này. 

  Công ước Rome 1980 về luật áp dụng cho các nghĩa vụ hợp đồng  đề cập đến vấn đề năng lực  hợp đồng. Theo đó, pháp luật của nước mà các bên mang quốc tịch vào thời điểm giao kết hợp đồng  được áp dụng để xác định năng lực  hợp đồng của các bên có nghĩa vụ.[1] 

 

 

Xung đột pháp luật về hình thức của hợp đồng

Xung đột pháp luật về hình thức của hợp đồng

 

 Nội dung này cũng được quy định tương tự tại Điều 13  Quy tắc Rome I. Có quốc tịch (theo Điều 13).  

 Trong các điều ước quốc tế song phương, vấn đề này cũng được đề cập  theo xu hướng cho rằng việc xác định năng lực giao kết hợp đồng sẽ áp dụng theo pháp luật quốc tịch của bên ký kết  (ví dụ, Điều 15 Hiệp định tương trợ tư pháp  Việt Nam – Tiệp Khắc hoặc khoản 1 Điều 28 của Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam - Hung-ga-ri. 

 

 

 3. Giải quyết tranh chấp pháp lý về hợp đồng theo  pháp luật Việt Nam 

 3.1 Cách hiểu của người Việt Nam về hình thức hợp đồng 

 Khoản 7 Điều 683 Bộ luật Dân sự  Việt Nam 2015 quy định: 

 

 “Hình thức của hợp đồng được xác định bởi pháp luật áp dụng cho hợp đồng đó. Trường hợp hình thức của hợp đồng không phù hợp với hình thức hợp đồng theo pháp luật áp dụng đối với hợp đồng đó, nhưng phù hợp với hình thức hợp đồng theo pháp luật của nước nơi giao kết hợp đồng hoặc pháp luật Việt Nam thì hình thức hợp đồng đó được công nhận tại Việt Nam".  

 Các quyền khác liên quan tới bất động sản, thuê bất động sản hoặc sử dụng bất động sản để thực hiện nghĩa vụ thì sẽ phải tuân theo pháp luật nơi có bất động sản; khoản 5 quy định: Trường hợp pháp luật do các bên lựa chọn trong hợp đồng lao động, hợp đồng tiêu dùng có ảnh hưởng đến quyền lợi tối thiểu của người lao động, người tiêu dùng theo quy định của pháp luật Việt Nam thì pháp luật Việt Nam được áp dụng để giải quyết; khoản 6 quy định: Các bên có thể thoả thuận thay đổi pháp luật áp dụng đối với hợp đồng nhưng việc thay đổi đó không được ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba được hưởng trước khi thay đổi pháp luật áp dụng, trừ trường hợp người thứ ba đồng ý. 

 

  Trường hợp các bên không có thoả thuận về pháp luật áp dụng thì pháp luật của nước có mối quan hệ gắn bó nhất với hợp đồng sẽ được áp dụng.  

 

 

 3.2 Cách thức giải quyết xung đột pháp luật về hình thức hợp đồng 

 Pháp luật nào là “pháp luật có mối quan hệ gắn bó nhất” với hợp đồng đã được Bộ luật dân sự 2015 quy định tại khoản 2 Điều 683. Theo đó pháp luật của nước có mối quan hệ gắn bó nhất với hợp đồng là pháp luật sau đây: 

 

 - Pháp luật của nước nơi người bán cư trú nếu là cá nhân, hoặc nơi thành lập nếu là pháp nhân đối với hợp đồng mua bán hàng hoá; 

 

 - Pháp luật nước nơi người cung cấp dịch vụ cư trú nếu là cá nhân hoặc nơi thành lập nếu là pháp nhân đối với hợp đồng dịch vụ; 

 

 - Pháp luật của nước nơi người nhận quyền cư trú nếu là cá nhân, hoặc nơi thành lập nếu là pháp nhân đối với hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng hoặc chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ; 

 

 - Pháp luật của nước nơi người lao động thường xuyên thực hiện công việc đối với hợp đồng lao động. Trong trường hợp người lao động thường xuyên thực hiện công việc tại nhiều nước khác nhau hoặc không xác định được nơi người lao động thường xuyên thực hiện công việc thì pháp luật của nước có mối quan hệ gắn bó nhất với 

 

 - Năng lực hành vi dân sự của cá nhân được xác định theo pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này; 

 

 - Trường hop người nước ngoài xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự tại Việt Nam, năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài đó được xác định theo pháp luật Việt Nam; 

 

 - Việc xác định cá nhân bị mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự tại Việt Nam theo pháp luật Việt Nam. 

  Từ những quy định trên đây về năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự của chủ thể là cá nhân có thể thấy năng lực giao kết hợp đồng của chủ thể là cá nhân sẽ căn cứ vào luật quốc tịch của cá nhân đó. Trong trường hợp hợp đồng được giao kết và được thực hiện tại Việt Nam thì năng lực giao kết hợp đồng của cá nhân sẽ xác định theo pháp luật Việt Nam. 

 

  Năng lực pháp luật của chủ thể là pháp nhân được quy định tại Điều 676 Bộ luật dân sự 2015. Theo đó, năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân được xác định theo pháp luật của nước mà pháp nhân có quốc tịch (Khoản 2 Điều 676 Bộ luật dân sự 2015). Tuy nhiên,  trường hợp pháp nhân nước ngoài xác lập, thực hiện giao dịch dân sự tại Việt Nam thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân nước ngoài đó được xác định theo pháp luật Việt Nam (Khoản 3 Điều 676 BLDS 2015).  

 Theo quy định tại Điều 676 Bộ luật Dân sự năm 2015 với nguyên tắc trên, có thể thấy, việc xác định năng lực  hợp đồng của chủ thể là pháp nhân nước ngoài sẽ căn cứ vào pháp luật của nước mà pháp nhân nước ngoài quy định. pháp nhân có thẩm quyền. Trường hợp pháp nhân nước ngoài xác lập và thực hiện hợp đồng tại Việt Nam thì khả năng  giao kết hợp đồng của pháp nhân nước ngoài đó sẽ căn cứ vào pháp luật Việt Nam. 

  Tuy nhiên, trong một số trường hợp, năng lực thực hiện hợp đồng của các bên vẫn được điều chỉnh bởi pháp luật nơi xác lập hợp đồng. Trong các điều ước quốc tế song phương mà Việt Nam  ký kết cũng quy định nếu các bên giao kết hợp đồng nhằm phục vụ nhu cầu thông thường trong cuộc sống hàng ngày  thì năng lực hành vi của cá nhân sẽ được xác lập dựa trên  pháp luật của nước ký kết đó. hợp đồng được giao kết. Đối với trường hợp giải quyết tranh chấp pháp lý liên quan đến năng lực pháp luật của pháp nhân được thành lập trên lãnh thổ của một quốc gia ký kết, nhìn chung các điều ước quốc tế mà Việt Nam  ký kết đều ghi nhận theo nguyên tắc sau: vị trí của nó trên lãnh thổ của một Quốc gia ký kết được xác định theo pháp luật của Quốc gia ký kết đã thành lập pháp nhân. Chẳng hạn, nội dung này được quy định tại Điều 28 Bộ luật Thực phẩm Việt Nam-Hungary; Điều 21 của Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Việt Nam-Ba Lan; Điều 17 Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.




Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo