
xử phạt hành chính sư dụng giấy tờ giả
1. Quy định về việc sử dụng giấy tờ, tài liệu giả:
Hiện nay, trên các phương tiện thông tin đại chúng, chúng ta vẫn nghe nói đến tình trạng sử dụng tiền giả, bằng đại học giả, sổ hộ khẩu giả, chứng minh nhân dân giả, giấy khám sức khỏe giả... Các loại giấy tờ được làm giả tinh vi bằng các công cụ, máy móc hiện đại nên thậm chí sổ đỏ (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) cũng có thể bị làm giả mà người dân thường khó phát hiện.
Việc sử dụng giấy tờ giả là hành vi vi phạm pháp luật, khi được sử dụng để lừa dối, “che mắt” cơ quan, tổ chức và công dân, gây thiệt hại nghiêm trọng cho cơ quan, tổ chức, công dân đó, đặc biệt trong các giao dịch mua, bán, thế chấp nhà, đất... Vậy hành vi này bị xử lý như thế nào theo quy định của pháp luật? Để giải quyết vấn đề này, trong nội dung bài viết, đội ngũ luật sư và chuyên gia Luật Dương Gia sẽ đề cập đến việc sử dụng giấy tờ giả có phạm tội hay không và sẽ bị xử phạt như thế nào theo quy định của pháp luật hiện hành.
Trước hết, về khái niệm “giấy tờ giả”? Hiện nay, trong quy định của pháp luật hiện hành không có quy định như thế nào là “giấy tờ giả”, tuy nhiên, có thể hiểu, giấy tờ giả tức là những giấy tờ không phải là thật, không được làm ra theo đúng quy trình, trình tự, thủ tục, tiêu chuẩn mà pháp luật quy định, không do cơ quan có thẩm quyền cấp một cách hợp pháp mà được làm ra với bề ngoài giống như thật, nhằm mục đích “đánh lừa”, lừa dối các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác để phục vụ các mục đích vụ lợi hoặc phục vụ mục đích khác theo nhu cầu của cá nhân.
“Giấy tờ giả“, có thể được xác định giả về mặt hình thức thể hiện, như “chứng minh nhân dân giả, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất làm bằng phôi giả. “Giấy tờ giả” cũng có thể được thực hiện thông qua việc làm giả về quá trình, về thẩm quyền cấp, nơi cấp. “Giấy tờ giả” cũng có thể thể hiện ở trường hợp giấy tờ có chữ ký, có con dấu và mẫu giấy thật nhưng tên của người trong tài liệu và thông tin trên tài liệu là giả hoặc được cấp cho người không đủ điều kiện, không thực hiện đúng quy trình, quy định, tiêu chuẩn mà pháp luật quy định.
Ví dụ: Bằng tốt nghiệp đại học giả, Chứng chỉ tiếng Anh, Tin học giả sẽ có hình dáng, kích thước giống như Bằng tốt nghiệp đại học, Chứng chỉ tiếng Anh, Tin học thật, nhưng người sở hữu Bằng tốt nghiệp này thực tế không học, không trải qua quá trình kiểm tra, sát hạch và không được cấp theo đúng quy trình, đúng đối tượng và không do cơ quan có thẩm quyền cấp, mà được giả mạo về phôi, giả mạo chữ ký…
“Giấy tờ giả” được làm ra và được đem đi sử dụng để lừa dối cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm mục đích phục vụ cho lợi ích riêng của mình, có thể xuất phát từ lý do cần bổ sung loại giấy tờ này vào hồ sơ để xin việc, để thăng hạng, lên chức nhưng lại không có đủ điều kiện để được cấp; hoặc sử dụng những giấy tờ này để lợi dụng lòng tin của người khác, lừa đảo, chiếm đoạt tài sản…
Dù xuất phát từ hoàn cảnh, từ lý do nào thì việc sử dụng giấy tờ giả cũng là hành vi vi phạm pháp luật và đã để lại những hệ lụy vô cùng nghiêm trọng. Điều này tạo ra môi trường bất bình đẳng, không công bằng cho những người có các loại giấy tờ này nhưng do “thi thật”, “học thật” nên việc cấp được thực hiện đúng quy trình, quy định.
Việc sử dụng giấy tờ giả không chỉ ảnh hưởng đến lòng tin, gây thiệt hại cho cơ quan, tổ chức, cá nhân tiếp nhận các loại giấy tờ này từ người sử dụng giấy tờ giả mà còn gây thiệt hại trực tiếp cho người có giấy tờ giả. Thông tin được đưa ra để ngụy tạo tài liệu giả. Và trước hết, việc sử dụng giấy tờ giả cũng là hành vi vi phạm pháp luật, ảnh hưởng đến trật tự quản lý xã hội, là căn cứ tạo điều kiện xử lý tội phạm đối với các trường hợp khác, ví dụ người sử dụng giấy tờ giả để thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. … Vì những lý do này, việc sử dụng giấy tờ giả phải bị nghiêm trị.
Về việc xử lý người có hành vi sử dụng giấy tờ giả, hiện nay trong các quy định hiện hành đã có quy định về việc xử lý hành vi này theo mức độ. Như vậy, tùy theo mức độ, hành vi sử dụng giấy tờ giả có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc xử phạt hành chính và bị xử phạt bằng các hình thức xử phạt khác, cụ thể:
2. Trách nhiệm hình sự khi sử dụng giấy tờ, tài liệu giả:
Đối với người có hành vi sử dụng giấy tờ giả thì người này có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan tổ chức theo quy định tại Điều 341 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bởi khoản 126 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự 2015 với khung hình phạt là có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, bị phạt cải tạo không giam giữ, hoặc bị phạt tù đến 07 năm tù tùy theo từng mức độ vi phạm.
Căn cứ theo quy định tại Điều 341 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bởi khoản 126 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2015, thì người có hành vi sử dụng giấy tờ giả, có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi này nếu họ đáp ứng các yếu tố cấu thành của Tội sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan tổ chức. Cụ thể:
Thứ nhất, về mặt khách quan của tội phạm:
Mặt khách quan của tội phạm thường được hiểu là những mặt, những biểu hiện bên ngoài cho chúng ta xác định về tội phạm này với tội phạm khác. Đối với tội sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức thì mặt khách quan thường thể hiện ở các yếu tố sau:
Về hành vi, người phạm tội có hành vi sử dụng giấy tờ, tài liệu giả của cơ quan tổ chức. Việc sử dụng giấy tờ, tài liệu giả trong trường hợp này là để nhằm mục đích lừa dối, cơ quan, tổ chức và sử dụng nó như là công cụ thực hiện hành vi trái pháp luật. Do vậy, nếu một người mặc dù có giấy tờ giả nhưng không sử dụng nó để thực hiện hành vi trái pháp luật thì cũng chưa đủ yếu tố để bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Thứ hai, về mặt chủ quan:
Mặt chủ quan của một tội phạm được hiểu là những yếu tố nội hàm, phản ánh những biểu hiện bên trong của một tội phạm, và thường được biểu hiện thông qua các yếu tố lỗi, động cơ, mục đích phạm tội. Đối với tội sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức, người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, nghĩa là bản thân họ biết và nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra mà mong muốn hậu quả đó xảy ra hoặc mặc dù không mong muốn hậu quả đó xảy ra nhưng có ý thức bỏ mặc cho hậu quả đó xảy ra.
Hành vi của họ, với lỗi cố ý nhằm mục đích để lừa dối cơ quan, tổ chức, có thẩm quyền, để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật trục lợi cho bản thân. Động cơ phạm tội có thể xuất phát từ việc muốn có tiền (áp dụng trong hành vi lừa đảo để chiếm đoạt tài sản) hoặc có cơ hội “thăng quan tiến chức”, nâng cao bản thân, được vào làm tại cơ quan, tổ chức…
Thứ ba, về khách thể
Khách thể của Tội sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức được xác định là xâm phạm trực tiếp đến trật tự quản lý kinh tế – xã hội, xâm phạm đến quy trình cũng như tính đúng đắn trong hồ sơ thủ tục khi tham gia các quan hệ xã hội khác. Đơn cử như việc sử dụng học bạ, chứng chỉ giả để thi tuyển công chức, hành vi này là vi phạm pháp luật và vi phạm quy định về điều kiện để thi tuyển công chức.
Thứ tư, về chủ đề:
Trong Tội sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức, chủ thể phạm tội là người đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đủ 16 tuổi trở lên.
Nếu người thực hiện hành vi sử dụng tài liệu giả và đủ yếu tố cấu thành tội sử dụng con dấu, tài liệu giả thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này theo quy định của BLHS 2015 sửa đổi bổ sung tại điều 126, điều 1 luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS 2015. Nếu không đáp ứng một trong các điều kiện trên thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
3. Xử phạt hành chính trong trường hợp sử dụng giấy tờ, tài liệu giả:
Đối với hành vi sử dụng giấy tờ giả chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì có thể bị xử phạt vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực cụ thể, tùy theo loại giấy tờ giả sử dụng, tờ nào. Bởi hiện nay, pháp luật hiện hành chưa quy định xử phạt hành chính chung đối với hành vi sử dụng giấy tờ giả mà quy định xử phạt hành vi này trong từng lĩnh vực cụ thể. Ví dụ:
– Đối với hành vi sử dụng chứng minh nhân dân giả, theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 9 Nghị định 167/2013/NĐ-CP, người thực hiện hành vi này có thể bị xử phạt với mức tiền là 2.000.000 đồng đến 4.000.000 VNĐ; Đồng thời, sẽ tịch thu giấy chứng minh nhân dân giả.
- Đối với hành vi sử dụng văn bằng, chứng chỉ giả chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 4 Điều 17 Nghị định 79/2015/NĐ-CP thì người nào thực hiện hành vi đó. hành vi này sẽ bị phạt tiền với mức phạt tiền từ 7.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng; Đồng loạt tịch thu văn bằng, chứng chỉ giả...
Ngoài việc bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc bị xử phạt hành chính, tùy theo đối tượng vi phạm mà trong một số trường hợp, người thực hiện hành vi sử dụng tài liệu giả còn có thể bị xử phạt.
Nội dung bài viết:
Bình luận