Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ thực sự của nhân dân trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam

Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ thực sự của  nhân dân trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam

I. Một số vấn đề lý luận về dân chủ xã hội chủ nghĩa dưới góc nhìn của Đảng Cộng sản Việt Nam 

 

 Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền về tay nhân dân, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu là lợi ích cho con người. Bao nhiêu quyền lực thuộc về nhân dân, Cải tạo, xây dựng công trình là trách nhiệm của nhân dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến ​​quốc là việc của dân. Chính quyền cấp xã ở trung ương do dân bầu ra. Các đoàn thể chính quyền trung ương nên được tổ chức bởi người dân. Tóm lại, mọi quyền lực đều ở trong tay nhân dân…”[1]. Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, do nhân dân vì nhân dân. Trong các giai đoạn phát triển của đất nước từ sau cách mạng tháng Tám 1945 đến nay tư tưởng Hồ Chí Minh “Mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân “luôn là cơ sở quan trọng, là kim chỉ nam cho việc hoạch định và thực thi mọi đường lối, chủ trương, chính sách trong xây dựng và bảo vệ đất nước.” 

 

 

 

 Trong quá trình đổi mới đất nước, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, về quyền làm chủ của nhân dân luôn được quán triệt và phát triển cả về lý luận và thực tiễn. Đại hội VI của Đảng [1986] - Đại hội mở đầu công cuộc đổi mới đất nước, nhấn mạnh phát huy dân chủ để tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển đất nước. Đại hội đã rút ra bài học “lấy dân làm gốc “là sự thể hiện cô đọng tư tưởng dân chủ. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội được Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng [1991] thông qua đã xác định “Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân …Toàn bộ tổ chức và hoạt động của Hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. 

 

 

  Dân chủ gắn liền với công bằng xã hội và phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội thông qua hoạt động của Nhà nước do nhân dân cử ra bằng các hình thức dân chủ trực tiếp. Dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương phải được thể chế hóa bằng pháp luật và được bảo đảm bằng pháp luật. Nhà nước làm luật để xác định quyền con người, quyền công dân, quyền với nghĩa vụ và trách nhiệm”[2]. 

 Đại hội Đảng lần thứ VIII đã bổ sung nội dung mới trong phạm trù dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: dân chủ ở cơ sở với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. 

 

 

 Đại hội IX của Đảng đã rút ra 4 bài học, trong đó bài thứ hai là “Đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn sáng tạo” và bổ sung nội dung “dân chủ” vào mục tiêu chung của Đảng. Cách mạng Việt Nam “Lợi ích của giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích của cả dân tộc ở một mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”[3]. 

 Đại hội X khẳng định dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại hội đã quyết tâm xây dựng một xã hội mà cán bộ, đảng viên, công chức phải thực sự là công bộc của nhân dân. 

 

 

 Những quan điểm về dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhân dân làm chủ trong Cương lĩnh năm 1991 tiếp tục được khẳng định và phát triển trong các văn kiện Đại hội Đảng tiếp theo, nhất là trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011. Chủ nghĩa xã hội là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là mục tiêu. động lực phát triển của đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện dân chủ cụ thể ở mọi cấp, mọi lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được bảo đảm bằng pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền của công dân; đảm bảo hạnh phúc và sự phát triển tự do của mọi người. Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và pháp luật quy định. Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. Nhân dân thực hiện quyền giám sát thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện khác[4]. 

 

 

 Đại hội XII của Đảng [năm 2016] đã chỉ rõ: “Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân và được nhân dân tham gia ý kiến. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ và nghiêm túc trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm sự tham gia của người dân ở tất cả các khâu của quá trình ra quyết định liên quan đến lợi ích và cuộc sống của người dân, từ việc đưa ra sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến giám sát quá trình thực hiện [5]. Tại Đại hội Đảng lần thứ 13 [2021], vấn đề dân chủ xã hội chủ nghĩa đã có động lực mới “Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, đề cao sự tham gia tích cực của nhân dân vào các chính sách - xã hội và trách nhiệm của nhân dân đối với tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội... Có cơ chế. phát huy mọi tiềm năng, sức mạnh, sức sáng tạo, khuyến khích nhân dân tham gia phát triển kinh tế và quản lý phát triển xã hội. Bảo đảm công khai, minh bạch thông tin, quyền được thông tin và khả năng tiếp cận thông tin của mọi tầng lớp nhân dân[6]. 

 Như chúng ta thấy, xây dựng và thực hành nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ thực sự của nhân dân là quan điểm xuyên suốt, mục tiêu xuyên suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Qua mỗi kỳ đại hội, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân chủ xã hội chủ nghĩa không ngừng được bổ sung, hoàn thiện và phát triển. 

 

 

 Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau: 

 

 

 

  1. Bản chất, nội hàm của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; Quyền làm chủ của nhân dân ở Việt Nam được thể hiện thông qua cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. 

 

 Cơ chế này do Đại hội V của Đảng đề ra và được Đại hội VI xác định là phương thức vận hành tổng thể của hệ thống chính trị Việt Nam. dân chủ” thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân trong quá trình xây dựng và thực hành nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Như vậy, sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước là điều kiện tiên quyết bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Trong mối quan hệ này, Đảng xác định Nhân dân luôn là trung tâm, ý chí, nguyện vọng và lợi ích hợp pháp của Nhân dân là trên hết, là mục tiêu xuyên suốt mọi đường lối, nguyên tắc chính trị, chính sách của Đảng và Nhà nước. pháp luật. Văn kiện Đại hội XI của Đảng nêu rõ “Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân; cán bộ, công chức làm tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, tôn trọng nhân dân, hết lòng phục vụ nhân dân. Có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp và quyền làm chủ của mình một cách thiết thực thông qua các cơ quan đại diện của mình”[7]. Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ được xác định là “một trong 10 mối quan hệ lớn, phản ánh các quy luật biện chứng, những vấn đề lý luận cơ bản về đường lối đổi mới của Đảng... cần được nhận thức đúng, đủ, quán triệt và thực hiện tốt, có hiệu quả "[số 8]. 

 

 

  1. Nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam xác định “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các tổ chức trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức và quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến ​​của nhân dân và chịu sự kiểm soát của nhân dân; có cơ chế, biện pháp kiểm soát, ngăn chặn, trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thiếu trách nhiệm, lạm quyền, vi phạm quyền dân chủ của công dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân”.[9] Thể chế hóa quan điểm của Đảng về trách nhiệm của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền tự chủ của Nhân dân... Các cơ quan nhà nước, cán bộ,..., công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến ​​của Nhân dân và chịu sự giám hộ của Nhân dân, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, cửa quyền. và thẩm quyền (Điều 3 và Điều 8 Hiến pháp 2013). 

 

 

  1. Tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân là quan điểm toàn diện, nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân chủ xã hội chủ nghĩa. 

 Một trong những mục tiêu quan trọng của sự nghiệp cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo là giải phóng con người khỏi mọi hình thức bóc lột, bất công, xây dựng một xã hội mọi người được tự do, ai cũng có quyền cơm ăn, áo mặc, ai cũng được bình đẳng. học tập, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được tôn trọng về nhân phẩm. Vì vậy, vấn đề tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân luôn được Đảng Cộng sản Việt Nam quan tâm hàng đầu. Đảng ta quan niệm: “Quyền con người là kết quả đấu tranh lâu dài qua các thời đại của công nhân và các dân tộc bị áp bức trên thế giới, đồng thời cũng là kết quả đấu tranh của công nhân. chủ sở hữu tự nhiên; qua đó, quyền con người trở thành giá trị chung của nhân loại... Giải phóng con người gắn liền với giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng xã hội. Chỉ trong tiền đề độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, quyền con người mới được bảo đảm đầy đủ. Trong chủ nghĩa xã hội có sự kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội. Chúng tôi hết sức coi trọng việc bảo đảm lợi ích của các cá nhân, các dân tộc vì đó là mục tiêu, là động lực của sự phát triển xã hội. đồng thời bảo đảm lợi ích của tập thể và của toàn bộ cộng đồng xã hội”[10]. Bước vào công cuộc đổi mới, vấn đề tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người luôn được khẳng định trong các văn kiện Đại hội Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH [Bổ sung 1991, Phát triển 2011] nhấn mạnh: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể của sự phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước, quyền tự làm chủ của nhân dân”[11]. 

 

 

 Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: “Thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013... hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền, quyền và nghĩa vụ của con người của công dân. .. Bảo đảm mọi người dân đều được thụ hưởng thành quả của công cuộc đổi mới”[12]. 

 Đại hội XIII đã xác định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ các quyền của con người và của công dân. Theo đó Quốc hội tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng quy trình lập pháp, tập trung xây dựng, hòa thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân… Xây dựng nền hành chính phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền… Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân[13].  

 

 

  1. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tiền đề quan trọng để xây dựng, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân 

 

 Trong quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”. Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu; tổ chức quản lý và phân phối. 

 

 

  Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển… Mỗi chính sách kinh tế phải đều hướng tới mục tiêu phát triển xã hội, mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, khuyến khích làm giầu hợp pháp, phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn[14]. Thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam tạo nhiều điều kiện để mọi tầng lớp nhân dân trở thành những người làm chủ đời sống kinh tế; phát huy nguồn lực, sức sáng tạo để thực hiện quyền “tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm”. 

 Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất kinh doanh, phát triển bền vững các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước. 

 Trong những năm qua, mặc dù có những khó khăn, thách thức, nền kinh tế đất nước tiếp tục phát triển, đạt nhiều thành tựu to lớn, tạo cơ sở vật chất quan trọng để xây dựng, thực hiện dân chủ xã hội công bằng, bảo đảm mọi người không chỉ có quyền bình đẳng mà còn bình đẳng về điều kiện. . khả năng kiểm soát của nhà nước và xã hội. 

 

 

  1. Không ngừng xây dựng, củng cố, kiện toàn khối đại đoàn kết toàn dân tộc vừa là nội dung, vừa là yêu cầu tất yếu của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Ngay từ đầu cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng, củng cố và củng cố tình đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc anh em cùng chung sống hòa thuận trên lãnh thổ Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các tầng lớp nhân dân không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo đã xích lại gần nhau, đoàn kết trong Mặt trận dân tộc thống nhất đấu tranh giành độc lập cho Tổ quốc trong cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, giành thắng lợi trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xây dựng và phát triển đất nước. Trong công cuộc đổi mới, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được phát huy và nhân lên mạnh mẽ, góp phần quan trọng đạt được những thành tựu có ý nghĩa lịch sử. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực, nguồn lực to lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo. Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của Nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập ,thống nhất toàn vẹn lãnh thổ “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của Quốc gia, dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước; tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết dân tộc[15]. 

 

 

 

 Đề cao sự tương đồng, tôn trọng sự khác biệt, thống nhất trong đa dạng là cách tiếp cận nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ trong xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc mà còn là những nguyên tắc chỉ đạo xuyên suốt quá trình xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 

 

 

  1. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật và được pháp luật bảo đảm.  

 Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung vào các mối quan hệ lớn cần nắm vững và xử lý tốt để thực hiện thành công các định hướng lớn, bao quát những vấn đề quan trọng của đất nước trong giai đoạn 10 năm tới, đó là mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Đây là mối quan hệ quan trọng quyết định hiệu quả của việc thực hành dân chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo đó, thể chế dân chủ, thiết chế dân chủ, quy trình, thủ tục thực hiện dân chủ phải được quy định trong Hiến pháp và được thể hiện trong hệ thống pháp luật của Nhà nước. Chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của Hiến pháp, pháp luật về Dân chủ xã hội chủ nghĩa và Chính quyền nhân dân là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, toàn xã hội và của toàn dân. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, củng cố kỷ luật, kỷ cương xã hội, tạo môi trường ổn định, an toàn, thuận lợi cho thực hành dân chủ luôn được Đảng và nhà nước ta hết sức quan tâm. Đảng luôn nhấn mạnh “phát huy dân chủ phải đi đôi với tăng cường pháp chế và kỷ cương xã hội; nghiêm khắc phê phán, nghiêm trị những hành vi vi phạm quyền tự chủ của nhân dân, những hành vi lợi dụng dân chủ làm tổn hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc, gây mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội [16] . 7. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được thực hiện thông qua nhiều hình thức với nhiều cơ chế phù hợp với thực tiễn Việt Nam 

 

 Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH [bổ sung, mở rộng năm 2011] xác định “Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện. 

 

 

 Đặc điểm nổi bật của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là hình thức dân chủ đại diện do hệ thống chính trị thực hiện và thông qua hoạt động của hệ thống chính trị gồm Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. , Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội. Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội làm hạt nhân, do nhân dân làm chủ. 

 Cùng với mục tiêu nâng cao hiệu quả dân chủ đại diện, Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng rất quan tâm phát huy dân chủ trực tiếp của nhân dân. Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, dân chủ trực tiếp của Nhân dân được thực hiện thông qua các cơ chế chủ yếu sau: 

 

 - Thực hiện quyền bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp; thực hiện quyền bãi nhiệm đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân khi  không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của cử tri.  

 - Tham gia trưng cầu ý dân khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân theo quy định của pháp luật. 

 - Tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến ​​nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước. 

 - Xây dựng quy chế dân chủ ở cơ sở theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân kiểm tra, dân hưởng lợi”. 

 

 

 II. Thiết thực xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân đối với công cuộc đổi mới đất nước. 

 

 

 Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới và 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta khẳng định “Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn và quan trọng. Có ý nghĩa lịch sử… Chưa bao giờ nước ta có cơ hội, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”[18]. Cùng với những thành tựu to lớn đó, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục có những bước phát triển quan trọng. 

 

 

 Quan điểm “dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển đất nước đã được quán triệt trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, việc phát huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân trong thực tiễn đã tạo động lực quan trọng, góp phần vào thành tựu chung của đất nước. mục tiêu phát triển đã được xác định trong các văn kiện Đại hội Đảng. 

 Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” tiếp tục được hoàn thiện, có nhiều đổi mới phù hợp với nhu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới. Mối quan hệ giữa Đảng, nhà nước và nhân dân ngày càng gắn bó, lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước được củng cố và tăng cường. Thông qua việc thực hiện cơ chế này, mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân được củng cố và tăng cường. Nhận thức và trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng và hệ thống chính trị được nâng cao; coi trọng lắng nghe, nắm chắc tình hình và tiếp thu những nguyện vọng, kiến ​​nghị chính đáng, hợp pháp của nhân dân... phát huy vai trò của nhân dân trong công tác xây dựng đảng”[19]. 

 Sự nghiệp “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ, tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả hơn; bảo đảm thực hiện đồng bộ các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Hoạt động của bộ máy nhà nước ngày càng hiệu quả, công khai, minh bạch và phục vụ nhân dân. Tiếp công dân, trách nhiệm giải trình được đề cao, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của người dân ngày càng đúng mục tiêu, đúng pháp luật. Đội ngũ chấp hành viên, công chức, viên chức gắn bó mật thiết với nhân dân, chăm lo ngày càng tốt hơn các công việc của dân và chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân. 

 

 

 Đảng và Nhà nước tiếp tục ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. 

 Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được quy định đầy đủ hơn trong Hiến pháp năm 2013 và trong hệ thống pháp luật được ban hành, sửa đổi gần đây. Khẳng định rõ hơn các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ theo quy định của Hiến pháp và pháp luật; gắn quyền công dân với nghĩa vụ, trách nhiệm đối với xã hội[21]. 

 

 

 Khối đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được mở rộng, củng cố và tăng cường trong bối cảnh đất nước còn nhiều khó khăn, thách thức. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân… phát huy ngày càng tốt hơn vai trò tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cùng Đảng, Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, tham gia xây dựng Đảng, quản lý nhà nước, quản lý xã hội; thường xuyên tổ chức các cuộc vân động, phong trào thi đua yêu nước, góp phần tích cực vào những thành tựu chung của đất nước[22].  

 

 

 Các quy định pháp luật về dân chủ trực tiếp của nhân dân, tiếp tục được hoàn thiện, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Luật bầu cử Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân được đổi mới, tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân bầu ra được các đại biểu thật sự tiêu biểu cho ý chí, nguyện vọng của mình. Luật trung cầu ý dân được Quốc hội thông qua 2015 đã tạo khuôn khổ pháp luật phù hợp để nhân dân thể hiện ý chí của mình về các vấn đề Nhà nước trung cầu khi Quốc hội quyết định Hệ thống các đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước, luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật tạo nhiều quy trình, thủ tục thuận lợi để nhân dân tích cực tham gia quản lý nhà nước, tham gia thảo luận và kiến nghị với các cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước. Việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở và pháp lệnh dân chủ ở thành phố, quận, huyện có nhiều tiến bộ[23]. 

 

 

 Nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng toàn diện hơn. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế.[24] Thành tựu xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam không chỉ bảo đảm các quyền kinh tế, dân sự của nhân dân mà còn tạo điều kiện, cơ hội to lớn để xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. 

 

 

 Tuy nhiên, thực tiễn xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân vẫn đặt ra nhiều vấn đề cần tập trung giải quyết. - Nhận thức về dân chủ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân còn hạn chế. 

 - Tình trạng tách rời, thậm chí đối lập giữa dân chủ với kỷ cương, pháp luật còn tồn tại ở nhiều nơi. 

 - Quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực còn bị vi phạm. 

 - Có nơi việc thực hiện dân chủ còn hạn chế, hình thức; có tình trạng lợi dụng dân chủ để gây chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ, gây mất trật tự, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. 

 - Hệ thống pháp luật, cơ chế, quy định, tổ chức và điều kiện thực hiện dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân còn thiếu chặt chẽ, thiếu đồng bộ. - Nhiều cấp ủy đảng, cơ quan nhà nước, cán bộ, đảng viên chưa nêu gương về phát huy dân chủ trong xã hội[25]. 

 

 

 III. Phương hướng và giải pháp tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân 

 

 Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định 12 phương hướng phát triển đất nước thời kỳ 2021-2030 với nhiều nội dung quan trọng. Việc thực hiện thắng lợi phương hướng phát triển do Đại hội đề ra không chỉ đưa Việt Nam trở thành nước phát triển, có nền công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao mà còn đưa nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lên một tầm phát triển mới. Liên quan trực tiếp đến việc phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh mới, Đảng đã xác định những định hướng lớn sau đây: 

 

 

 

 Đầu tiên. Thực hành và phát huy rộng rãi nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và quyền chủ thể của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố và gia tăng lòng tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội; tiếp tục đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội. 

 

 

  1. Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, phục vụ nhân dân và vì sự phát triển của đất nước. Nâng cao tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình; quyền lực kiểm soát gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của nhà nước và của người điều hành, cán bộ, công chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội.
  2. Tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện; tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng, đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả...
  3. Tiếp tục quán triệt và quản lý tốt các mối quan hệ lớn... trong đó có Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và sở hữu toàn dân; giữa thực hành dân chủ với tăng cường pháp quyền, bảo đảm kỷ cương xã hội[26].

 

 

 Để thực hiện thắng lợi phương hướng về dân chủ xã hội chủ nghĩa, Đại hội Đảng lần thứ XIII xác định một số giải pháp chủ yếu sau: 

 

 - Tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội [bổ sung, mở rộng năm 2011] và Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về tay người dân. Thực hiện đúng và có hiệu quả dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, nhất là dân chủ ở cơ sở. Vận dụng tốt, có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân nói, dân làm, dân xem, dân kiểm tra, dân làm lợi”. 

 

 - Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội làm hạt nhân để nhân dân làm chủ. Các cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức hệ thống chính trị, đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức nêu gương trong thực hành dân chủ, tuân thủ pháp luật, tôn trọng đạo đức xã hội. 

 - Đảng, Nhà nước ban hành chủ trương, chỉ thị, chính sách, pháp luật tạo cơ sở chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền tự làm chủ của Nhân dân. 

  - Giữ vững vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. - Phát huy tính tích cực chính trị - xã hội, trí tuệ, quyền và trách nhiệm của Nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, xây dựng đội ngũ đảng viên, cán bộ, viên chức. 

 - Vận động người dân tham gia phát triển kinh tế; tham gia quản lý xã hội thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và hoạt động tự quản của cộng đồng; xây dựng và quản lý, hưởng thụ văn hóa, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, ngoại giao nhân dân gắn với thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, thế trận lòng dân. 

  - Xử lý kịp thời, nghiêm minh các tổ chức, cá nhân trục lợi dân chủ, gây rối nội bộ, làm mất ổn định chính trị - xã hội, vi phạm dân chủ, phá hoại quyền làm chủ của nhân dân 27]. 

 

 

  35 năm qua, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đã trở thành một động lực quan trọng cho sự phát triển bền vững của đất nước. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng tạo ra nguồn lực mới để củng cố và phát triển hơn nữa, phát huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân trong thời kỳ mới. .

 

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    Họ và tên không được để trống

    Số điện thoại không được để trống

    Số điện thoại không đúng định dạng

    Vấn đề cần tư vấn không được để trống

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo