Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức

1. Thực trạng đội ngũ lãnh đạo, công chức, viên chức 

 Trong giai đoạn 2011-2020, chính sách, pháp luật về quản lý cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC) tiếp tục được hoàn thiện theo hướng liên thông, đồng bộ ở tất cả các khâu từ tuyển dụng, sử dụng, phát triển, đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng,  thăng tiến, đề bạt. Trong đó nhấn mạnh việc thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17 tháng 4 năm 2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức; Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Hội nghị  lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII nhấn mạnh xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Cụ thể, Bộ Chính trị đã ban hành Kế hoạch số 10-KH/TW ngày 06/6/2018 thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW; Chính phủ ban hành Nghị quyết số 132/NQ-CP ngày 24 tháng 10 năm 2018 về chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW. Trên cơ sở đó, Bộ Nội vụ và các bộ quản lý công chức, công chức chuyên ngành đã ban hành hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quản lý, phát triển đội ngũ thừa hành, công chức.

Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chuyên nghiệp, có năng lực,  phẩm chất đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và sự phát triển đất nước - Chi tiếtCó như vậy mới bảo đảm  chính sách, pháp luật về quản lý cán bộ, công chức phù hợp hơn với yêu cầu thực tiễn. Năm 2021, số lượng  công chức trong các cơ quan, tổ chức hành chính của Nhà nước là 247.344  (trong đó, bộ, ngành là 106.836; lao động địa phương là 140.508), cắt giảm 27.504 tiền lương, tương ứng giảm 10,01% so với năm 2015, đạt mục tiêu giảm ít nhất 10% theo Nghị quyết n°/ Biên chế tiền lương ngoài doanh nghiệp năm 2021 là 1.783.174 người (gồm bộ, ngành 116.698 người; địa phương 1.666.476 người), giảm 242.703 nhân viên, giảm 11,98 % so với năm 2015, đạt mục tiêu giảm ít nhất 10 % theo yêu cầu của Nghị quyết số 39-NQ/TW. Số biên chế, tinh giảm trên không bao gồm số cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động bán chuyên trách ở cấp xã và thôn, tổ dân phố là 1.031.851 người, giảm 147.290 người so với năm 2015, tương đương 12,49%. Cụ thể, cán bộ, công chức cấp thành phố hiện có 226.210 người, giảm 30.398 người so với năm 2015, tức là giảm 11,85%; lao động không chuyên trách cấp thị xã là 171.894 người, giảm 57.698 người so với năm 2015, tức giảm 25,13%; lao động không chuyên trách ở thôn, tổ dân phố là 633.747 người, so với năm 2015 giảm 59.194 người, tương ứng giảm 8,54%(1).  

 Công tác đào tạo, hỗ trợ và phát triển đội ngũ công chức, viên chức thường xuyên là chủ đề được đặc biệt quan tâm. Nếu tính cả giai đoạn 2011-2015, tổng số CBCC được đào tạo, bồi dưỡng là gần 2.900.000 lượt thì đào tạo về chuyên môn,  nghiệp vụ là 1.870.000 lượt người, tức đạt  gần 65% tổng số CBCC được đào tạo, bồi dưỡng; Trong giai đoạn 2016-2020 (tính đến tháng 3/2020) đã tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cho hơn 5,4 triệu lượt công chức luân chuyển. Trong đó,  khoảng 697.036  người được đào tạo, bồi dưỡng  lý luận chính trị; 447.181  người được bồi dưỡng kiến ​​thức quản lý nhà nước và khoảng  4,2 triệu  người được đào tạo, bồi dưỡng  nghiệp vụ (tăng 2,3 lần so với giai đoạn 2011-2015). 

  Theo báo cáo của các bộ, ngành, địa phương, tính đến tháng 3/2020, tổng số  công chức được đào tạo, bồi dưỡng trong cả giai đoạn 2016 - 2020 ở các bộ, ngành là 594.654  và ở các tỉnh, thành phố là hơn 1.151.654 triệu. Tổng số công chức được đào tạo, bồi dưỡng ở các bộ, ban, ngành Trung ương và các tỉnh, thành phố  cũng tăng đều qua các năm. Năm 2019, số công chức được đào tạo, bồi dưỡng được nhân 2,7 lần so với năm 2016, từ hơn 419.000 lên hơn 1,1 triệu tròn công chức (2) . Riêng đối với công chức TP, nếu như năm 2015, tổng số lãnh đạo, công chức TP là 234.061 người, tức bình quân 21 người/TP (trong đó lãnh đạo TP 116.043 người, công chức TP 118.018 người), thì đến tháng 4/2020, tổng số cán bộ, công chức TP là 234.617 người, tức bình quân 21 người/Đơn vị. (có 113.672 quan chức thành phố). Theo thống kê  năm 2018, trình độ chuyên môn  của  công chức thành phố như sau: trên đại học là 3,23%; đại học là 58,23%; trung cấp, cao đẳng là 37,86%; sơ cấp và chưa chính quy là 0,89%. Về trình độ chính trị: tú tài 1,02%;  lý do đưa ra là 3,11%; trung cấp  là 48,9%; sơ cấp  chưa tạo hình, chưa tái chế là 28,07%(3).  

 Nhìn chung, đội ngũ công chức, viên chức của nước ta có lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, đạo đức trong sáng, lối sống giản dị, gương mẫu, có ý thức rèn luyện, nỗ lực, thực hiện đúng nhiệm vụ được giao, năng động, sáng tạo, thích ứng nhanh với xu thế hội nhập và khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. Hầu hết đội ngũ cán bộ lãnh đạo của Đảng và hệ thống chính trị các cấp đều có năng lực, phẩm chất và uy tín, nhất là cán bộ cấp chiến lược có tư duy đổi mới, có năng lực xây dựng chủ trương, chính sách, lãnh đạo và  chỉ đạo tổ chức thực hiện.  Bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn những hạn chế cần  khắc phục, đó là:  số lượng công chức, viên chức đông nhưng chất lượng chưa đồng đều; vẫn còn tình trạng vừa thừa vừa thiếu ở nhiều nơi; sự liên kết giữa các cấp, các ngành còn hạn chế... Nhiều cán bộ quản lý, kể cả  cấp chiến lược còn thiếu  chuyên nghiệp, làm việc chưa đúng chuyên môn, sở trường; Trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc trong môi trường quốc tế còn  hạn chế (4) . Chất lượng thực thi công vụ của cán bộ công chức một số nơi chưa cao, việc giải quyết các vướng mắc liên quan đến người dân, tổ chức, doanh nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu, còn có biểu hiện bức xúc, sách nhiễu,  chấp hành kỷ luật, kỷ cương hành chính chưa nghiêm.  

 Một bộ phận không nhỏ cán bộ mất lý tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời hợt, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, nhiều cán bộ trẻ thiếu dũng cảm, ngại rèn luyện. Một số cán bộ cấp chiến lược thiếu gương mẫu, uy tín thấp, năng lực, phẩm chất chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, quan liêu, xa dân, chủ nghĩa cá nhân, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm. Tình trạng cầu chức, cầu quyền... chậm bị cảnh báo, bác bỏ. 

 Ở một số cơ quan, đơn vị, đội ngũ cán bộ, công chức còn tùy tiện trong tác phong làm việc, nặng về hành chính, quan liêu; Thói độc đoán, chuyên quyền của một bộ phận cán bộ tồn tại  lâu ngày làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, nhà nước,  giảm sút hiệu quả công việc. Thái độ đối với người dân và công ty còn chậm thay đổi; thiếu ý thức rèn luyện và văn hóa; thể hiện sự yếu kém trong giao tiếp, ứng xử. Quá trình đảm nhận lao động còn dài; công tác phối hợp còn thiếu chặt chẽ; Việc sử dụng thời gian lao động chưa hợp lý, hiệu quả chưa cao. Kỷ luật, kỷ cương tuy bước đầu được tăng cường nhưng thực tế có lúc có nơi còn lỏng lẻo, tùy tiện.  

 2.Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chuyên nghiệp, có năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ 

 

 Một là, phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.  

 Tiếp tục phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán bộ nói chung và đội ngũ CBCCVC nói riêng vừa là định hướng, vừa là giải pháp cơ bản nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo trực tiếp, toàn diện về công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ của Đảng, siết chặt kỷ luật, kỷ cương gắn với tạo môi trường, cơ chế thúc đẩy đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, sáng tạo và bảo vệ cán bộ. Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới; thông qua hoạt động thực tiễn; đặt trong tổng thể của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, thu hút, trọng dụng nhân tài cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng đội ngũ cán bộ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trước hết là của các cấp ủy, tổ chức đảng mà nòng cốt là các cơ quan tham mưu của Đảng, nhất là cơ quan tổ chức, cán bộ. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, cá nhân; các cơ quan thông tấn, báo chí trong công tác cán bộ và xây dựng  cán bộ. 

 Thứ hai, hoàn thiện chiến lược xây dựng và sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức phù hợp với tình hình mới. 

  Cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện thể chế pháp luật về cán bộ, công chức, nghiên cứu xây dựng Luật Công chức, Luật Đạo đức công vụ làm cơ sở cho hoạt động thực thi công vụ, nâng cao trình độ, năng lực của công chức gắn với  xây dựng chuẩn mực và tăng cường đạo đức công vụ. Đồng thời, nghiên cứu đổi mới hình thức tuyển chọn, bổ nhiệm công chức để khắc phục tình trạng tuyển dụng hiện nay kém cạnh tranh, chưa tuyển  được  người  tài, giỏi chuyên môn  vào đúng vị trí việc làm; Cần đổi mới trong việc xây dựng và mô tả công việc của từng vị trí việc làm cụ thể làm cơ sở cho việc tuyển chọn công chức. 

 Cần nghiên cứu, xây dựng  tiêu chí rõ ràng, minh bạch về yêu cầu công việc đối với từng vị trí việc làm trong từng bộ, cơ quan, đơn vị để làm cơ sở đánh giá mức độ hoàn thành công việc của từng công chức. Từ đó, điều chỉnh máy trạm dựa trên năng lực, trình độ; xây dựng chế độ khen thưởng, kỷ luật, quy hoạch, bổ nhiệm  công khai, công bằng, tạo động lực phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ của công chức. Xây dựng và thực hiện chế độ trách nhiệm giải trình rõ ràng trong hoạt động công vụ để khắc phục một trong những nguyên nhân  của nền hành chính yếu kém là sự thiếu rõ ràng, minh bạch trong giới hạn thẩm quyền  và phạm vi trách nhiệm của từng ngành,  cơ quan, đơn vị,  bộ phận và công chức. 

 Thứ ba, đổi mới công tác đào tạo, tiếp nhận để nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thừa hành. 

 Hiện nay, năng lực thực thi công vụ của đội ngũ công chức ở nhiều nơi còn hạn chế, một số chưa đáp ứng  yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ, thiếu các kỹ năng cần thiết để quản lý, lãnh đạo và thực thi công vụ, nhất là trong các tình huống, bối cảnh phức tạp. Việc thực thi  công vụ đôi khi còn thụ động, thiếu  chuyên nghiệp, ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước cũng như hiệu quả cung ứng dịch vụ công cho người dân và doanh nghiệp. Vì vậy, cần tăng cường công tác đào tạo, huấn luyện để nâng cao kiến ​​thức, trang bị kỹ năng, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ đáp ứng hiệu quả yêu cầu, nhiệm vụ. Đó là một trong những nhiệm vụ trọng tâm hiện nay đối với các cấp, các ngành và địa phương, nhất là trong bối cảnh chuyển đổi số và sự phát triển nhanh chóng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. 

 Đào tạo, huấn luyện cần đổi mới cả về nội dung và phương pháp nhằm phát triển năng lực lãnh đạo, quản lý và thực thi công vụ của  cán bộ quản lý, công chức, viên chức theo khung năng lực,  chức danh, vị trí việc làm. Cụ thể, phải chú trọng đào tạo và phát triển kỹ năng theo nhu cầu; Khả năng giải quyết một vấn đề; tổ chức đào tạo, cập nhật kiến ​​thức, kỹ năng về chính quyền điện tử, quản lý hiện đại, kỹ năng làm việc khoa học với  thiết bị công nghệ hiện đại cho đội ngũ cán bộ để nâng cao năng suất, hiệu quả công việc. Tuy nhiên, để có thể thực hiện có hiệu quả công tác chuyên môn trong  thực thi công vụ, đòi hỏi mỗi công chức phải không ngừng trau dồi bản lĩnh chính trị, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng lãnh đạo, điều hành, quản  lý công việc một cách khoa học, hiệu quả. Thứ tư, nâng cao chất lượng công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. 

  Đây là một trong những nội dung quan trọng của quy trình quản lý  đội ngũ cán bộ, công chức, ảnh hưởng trực tiếp đến việc chấp hành nghiêm kỷ luật, kỷ cương hành chính trong hoạt động của bộ máy nhà nước. Thực tiễn cho thấy, nhiều trường hợp trong quá trình công tác, một phần do thiếu tu dưỡng, rèn luyện, một phần do thiếu kiểm tra, giám sát chặt chẽ, buông lỏng quản lý nên đã dần  tha hóa, biến chất. Mặt khác, thông qua công tác kiểm tra, rà soát hoạt động công vụ sẽ giúp nhanh chóng phát hiện  những thiếu sót, tồn tại, vi phạm để có biện pháp giáo dục, điều chỉnh, kiến ​​nghị sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý hoạt động công vụ nói chung. Cùng với đó, phát huy vai trò kiểm tra, giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân đối với cán bộ, công chức, viên chức. Quá trình kiểm tra, giám sát cần  chú trọng tính đầy đủ, kịp thời  về đường lối, tư tưởng, đạo đức và kết quả hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ, công tác tư tưởng, quản lý và rà soát chế độ học tập, tự rèn luyện của cán bộ, công chức, viên chức; kết hợp  kiểm soát thường xuyên,  định kỳ với kiểm soát đột xuất, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao./.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    Họ và tên không được để trống

    Số điện thoại không được để trống

    Số điện thoại không đúng định dạng

    Vấn đề cần tư vấn không được để trống

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo