1. Khái niệm xã hội học pháp luật
Xã hội học pháp luật là một chuyên ngành của xã hội học nghiên cứu các quy luật xã hội và các quá trình xã hội về sự xuất hiện, tồn tại và vận hành của pháp luật trong xã hội, trong mối quan hệ với cơ cấu xã hội, với các loại quy phạm xã hội khác; nguồn gốc, bản chất xã hội, chức năng xã hội của pháp luật; khía cạnh xã hội của hoạt động lập pháp và hành pháp; các sự kiện, hiện tượng pháp luật thể hiện trong hoạt động của các chủ thể pháp luật. Xã hội học pháp luật là một lĩnh vực khoa học thú vị, bổ ích nhưng còn mới mẻ ở nước ta; chủ yếu được tìm hiểu và nghiên cứu trong nhiều thập kỷ qua với các sách và bài báo phản ánh các khía cạnh và khía cạnh khác nhau của ngành khoa học này nằm rải rác trong các sách, tập san và tạp chí khoa học. Ngoài một số ít công trình, tài liệu dịch từ tiếng nước ngoài, hiện có rất ít công trình chuyên ngành về xã hội học pháp luật được các tác giả trong nước biên soạn một cách công phu, nghiêm túc và có hệ thống.

xã hội học pháp luật
2. Khái niệm pháp luật trong xã hội học pháp luật
Xã hội là một tập hợp các nhóm người, được phân biệt trên cơ sở lợi ích, trong đó các mối quan hệ tương tác giữa con người với nhau được thiết lập một cách có trật tự, có cơ cấu tổ chức điều chỉnh trên cơ sở một nền văn hóa thông qua một hệ thống các khuôn mẫu hành vi được định hình trong từng cộng đồng xã hội. Pháp luật là nhân tố quan trọng điều chỉnh và xác lập các lợi ích trong hệ thống xã hội. Quan điểm xã hội học pháp luật tiếp cận và nghiên cứu pháp luật từ hai quan điểm khác nhau. Một mặt, pháp luật được coi là công cụ thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp, ở đây pháp luật là phương tiện kiểm soát xã hội, được nhà nước bảo đảm cụ thể. Quan niệm thứ nhất gắn pháp luật với ý chí của nhà nước, do nhà nước xây dựng và ban hành (luật thực định). Mặt khác, khái niệm pháp luật được xem như một loại quy phạm xã hội, là tổng thể các quy tắc xử sự bao gồm các quan hệ tự nhiên của con người và xuất phát từ nhu cầu, lợi ích xã hội. Thứ hai coi pháp luật là một loại quy phạm xã hội bên ngoài Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, sự ra đời của pháp luật gắn liền với sự ra đời của nhà nước. Ý tưởng rằng pháp luật không tồn tại trong thời nguyên thủy. Trong thời kỳ này, do trình độ phát triển kinh tế còn thấp nên chỉ có phong tục, tôn giáo và các quy tắc đạo đức chi phối các quan hệ xã hội. Khi chế độ tư hữu xuất hiện, xã hội phân chia thành các giai cấp, mâu thuẫn giữa các giai cấp diễn ra gay gắt không thể điều hòa được, các quy phạm xã hội cũ không thể duy trì trật tự xã hội thì một loại quy phạm xã hội mới có tính cưỡng chế mạnh hơn, thể hiện ý chí của giai cấp chính là quy phạm pháp luật. Hệ thống pháp luật được hình thành ở các quốc gia khác nhau tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội và trình độ phát triển của mỗi quốc gia. Pháp luật được hình thành theo những cách khác nhau. Bước đầu, các giai cấp thừa nhận tập quán lâu đời của cộng đồng xã hội, dần dần cải biến nội dung theo lợi ích của giai cấp mình, nâng lên thành những chuẩn mực pháp luật. Mặt khác, khi cơ cấu xã hội thay đổi, các quan hệ xã hội mới phát sinh cần được điều chỉnh bằng các quy phạm pháp luật mới, tức là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành. Bản chất giai cấp của pháp luật c. Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Giống như pháp quyền của các ông chỉ có ý chí của giai cấp các ông mới được xác lập thành luật, thì ý chí mà nội dung của nó do điều kiện sống vật chất của giai cấp các ông quy định cũng vậy. Giai cấp là giai cấp và không có pháp luật nào chỉ mang tính xã hội. Theo quan điểm thứ nhất: pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung có tính ràng buộc, được nhà nước ấn định hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chế, là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội. Quan điểm thứ hai, xuất phát từ quan niệm cho rằng thế giới hình thành là do sự vận động của vật chất, sự vận động đó có những quy luật bất biến, mọi vật đều phải tuân theo những quy luật không phải do nó tạo ra, kể cả con người. Đó là quy luật tự nhiên. Luật tự nhiên là luật tồn tại độc lập với hệ thống pháp luật, được tạo ra bởi một trật tự chính trị hoặc một quốc gia. Nó xuất phát từ bản chất con người và lấy lý trí của con người làm nền tảng. Ý tưởng về luật tự nhiên đã được hình thành từ thời cổ đại. Các triết gia đã phát triển quan điểm về luật tự nhiên để chống lại quan điểm "theo chủ nghĩa thông thường" cho rằng luật pháp và công lý chỉ là những quy ước giả tạo. Không có hành vi nào là đúng hay sai trừ khi một số cộng đồng công nhận nó thông qua luật pháp và phong tục. Lý thuyết về luật tự nhiên lần đầu tiên được đề cập bởi Aristotle trong các tác phẩm của ông. Ông tin rằng trong tự nhiên đã có luật lệ, luật pháp và công lý. Con người phải viết luật phù hợp với quy luật tự nhiên. Đối với một hệ thống chính trị hoàn hảo, có thể không cần luật. Nhưng nếu luật pháp là cần thiết, thì luật tự nhiên là tốt nhất, thì mọi người đều có quyền bình đẳng và độc lập, không ai có quyền làm hại người khác và mọi người đều có quyền trừng phạt kẻ làm hại người khác. Xã hội văn minh ra đời nhằm mục đích quản lý xã hội tốt hơn và các cá nhân ủy thác một số chức năng của mình cho các thành viên của nhà nước. Nhà nước hoặc hệ thống chính phủ được thể chế hóa trong các hợp đồng xã hội. Như vậy, quyền lực của nhà nước là có hạn và nhà nước có nghĩa vụ đối với nhân dân và quyền lực này cũng có thể bị thay đổi bởi nhân dân. Theo ông, con người luôn ích kỷ và đầy ham muốn. Chính vì vậy, từ trạng thái tự nhiên của mình, con người đã tự cho mình quyền phán xét và trừng phạt người khác để duy trì quy luật tự nhiên. Khi nhà nước ra đời đã giúp duy trì các quy luật tự nhiên thông qua các quy luật của xã hội văn minh. Ngay cả một nhà nước chuyên chế cũng phải thực hiện đầy đủ các chức năng của một khế ước xã hội với tư cách là một chính quyền dân sự nếu không muốn bị diệt vong. Chức năng chính của chính quyền dân sự là bảo vệ các quyền tự nhiên của con người, đó là quyền sống, quyền tự do, sức khỏe và tài sản của mọi công dân. Khi bàn về khế ước xã hội, ông cho rằng nhà nước không cần có quá nhiều quyền lực, vì nó chỉ làm cho người dân bị áp bức. Hình thức nhà nước tốt nhất là hình thức mà quyền lực bị hạn chế bằng cách chia nó thành các nhánh, và mỗi nhánh có thẩm quyền riêng cần thiết để thực hiện các chức năng của mình. Một hệ thống nhà nước nên có một cơ quan tư pháp độc lập mà việc ra quyết định chỉ dựa trên hiến pháp của quốc gia. Nhiệm vụ của quốc hội là lập pháp và nhiệm vụ của nhà vua là luật sư tự nhiên để xem xét con người trước khi hình thành xã hội, họ chấp nhận các quy luật tự nhiên như thế nào? Quy luật tự nhiên đưa vào tâm trí con người ý tưởng về một đấng sáng tạo. Đây là điều quan trọng nhất, nhưng không phải là điều đầu tiên. Con người ở trạng thái tự nhiên có khả năng nhận thức trước tri thức. Những suy nghĩ đầu tiên không phải là suy đoán. Người ta nghĩ đến việc đề phòng mình trước khi tìm về cội nguồn. Ví dụ, một người đàn ông nguyên thủy sống trong rừng, mọi thứ khiến anh ta sợ hãi và bỏ chạy. Ở trạng thái này, con người cảm thấy thấp kém và hầu như coi mọi người như mình, họ không tìm cách công kích lẫn nhau. Hòa bình là quy luật tự nhiên đầu tiên của con người. Thứ hai là quy luật con người phải tìm cách kiếm sống. Ở quy luật thứ nhất, vì sợ hãi nên người ta phải bỏ chạy, nhưng khi hai người nhận thấy đối phương cũng sợ như mình thì lại xích lại gần, nên quy luật thứ ba là quy luật nam nữ chung sống. Và luật cuối cùng là luật mà mọi người sống trong xã hội. KHÔNG PHẢI LÀ MỘT TỪ. Rousseau cho rằng pháp luật được hình thành từ ý chí chung và vì lợi ích chung của mọi thành viên trong xã hội: “Khi toàn dân quy định cái gì cho toàn dân thì chỉ xét đến cái toàn thể, nếu hình thành mối quan hệ thì phải là mối quan hệ giữa cái toàn thể xét từ góc độ này với cái toàn thể nhìn từ góc độ khác, cái chỉnh thể không bị chia cắt. Như vậy, vật liệu xây dựng là vật liệu chung, cũng như ý chí xây dựng là ý chí chung. Cải cách này, tôi gọi nó là luật.” Trong xã hội nguyên thủy, mỗi cá nhân thực hiện nghĩa vụ của mình và được hưởng các quyền mà xã hội chia sẻ. Quy phạm pháp luật là hệ thống các mối quan hệ giữa các quyền và nghĩa vụ này. Như vậy, xét theo vị trí của quy luật tự nhiên, quy luật đã được hình thành từ thời nguyên thủy. Xuất hiện các tổ chức xã hội và các nhà quản lý như hội đồng thị tộc, bộ lạc. Hội đồng này thiết lập các quy định dựa trên ý chí của các thành viên trong cộng đồng để giải quyết các vấn đề như: tổ chức công việc, chiến tranh, tôn giáo, xung đột. Các quy định được hình thành trên cơ sở các quy tắc tập quán, đạo đức là pháp luật. Trường luật tự nhiên cho rằng các quyền con người đối với cuộc sống, tự do, tài sản, an ninh và hạnh phúc là bất khả xâm phạm. Vì vậy, pháp luật do nhà nước ban hành phải phù hợp với quy luật tự nhiên, không được lạm dụng quyền lực của cơ quan nhà nước để xâm phạm các quyền cơ bản của con người. Pháp luật phải chứa đựng những đạo lý bên trong, đạo lý tiềm ẩn, và luật pháp phải bảo đảm sự công bằng thì mới thành luật. Nếu một hệ thống quy tắc vi phạm các nguyên tắc cơ bản của công lý và bình đẳng, thì hệ thống quy tắc này không thể được coi là một hệ thống pháp luật. Như vậy, quy luật tự nhiên chứa đựng những giá trị nhân văn sâu sắc, tác động mạnh mẽ đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Ở Việt Nam, vấn đề nghiên cứu quy luật tự nhiên tuy mới xuất hiện trong những năm gần đây nhưng việc kế thừa, tiếp thu và vận dụng những giá trị nhân văn của quy luật tự nhiên như một nhu cầu khách quan của thực tiễn đời sống xã hội, phản ánh các quan hệ kinh tế, xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Trong quan hệ với kinh tế, pháp luật phụ thuộc vào kinh tế, thể hiện ở chỗ nội dung của pháp luật do các quan hệ kinh tế - xã hội quy định; Chế độ kinh tế là cơ sở, là nền tảng của pháp luật. Mặt khác, pháp luật tác động đến sự phát triển của nền kinh tế. Sự tác động này là tích cực khi pháp luật có nội dung tiến bộ, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị với tư cách là lực lượng tiến bộ trong xã hội, phản ánh trình độ phát triển của nền kinh tế. Ngược lại, tác động tiêu cực là khi pháp luật có nội dung lỗi thời, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị đã lỗi thời muốn dùng pháp luật để duy trì các quan hệ kinh tế không còn phù hợp. Trong quan hệ với xã hội, pháp luật được tạo ra từ những vấn đề nảy sinh trong đời sống xã hội, phản ánh nhu cầu và lợi ích chung của xã hội, là kết quả của một quá trình xã hội. Thông qua Nhà nước, thừa nhận những đạo đức hợp lý, khách quan, chứa đựng những giá trị xã hội tích cực, phổ quát của con người. Vì vậy, pháp luật là hiện thân của các quy luật xã hội nhằm đảm bảo sự phát triển chung của xã hội như K. Mác đã chỉ ra: “Pháp luật phải dựa trên xã hội, pháp luật phải là sự thể hiện lợi ích và nhu cầu chung của xã hội”: Trong xã hội luôn tồn tại nhiều mối quan hệ xã hội có tính chất đa dạng và phức tạp. Tuy nhiên, pháp luật không thể điều chỉnh tất cả các quan hệ xã hội.
3. Điều kiện xuất hiện xã hội học pháp luật
Cuối thế kỷ XVIII, ở Tây Âu, những biến đổi xã hội diễn ra mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực khoa học, kinh tế, chính trị, xã hội... Khoa học tự nhiên đã đạt được những thành tựu to lớn trong việc phát hiện ra cấu trúc, thành phần của thế giới vật chất và phát triển các phương pháp nghiên cứu thế giới vật chất một cách có hệ thống. Điều này đã ảnh hưởng đến các ngành khoa học xã hội. Khám phá của nhà vật lý Newton khiến các nhà khoa học xã hội hy vọng tìm ra một nguyên lý trật tự cân bằng, tương tự cơ chế trọng lực trong xã hội. Nhà khai sáng Montesquieu trong cuốn sách “Tinh thần của pháp luật” đã đưa ra các thuật ngữ máy móc để giải thích các hình thức của nhà nước phụ thuộc vào các cơ chế vận hành và liệu chúng có vận hành theo bản chất của chúng hay không. Tinh thần thượng tôn pháp luật của một quốc gia có thể tạo ra sự phục hưng và vực dậy bộ máy nhà nước hoạt động bình thường trở lại. Như vậy, tính khách quan của các quy luật bắt nguồn từ bản chất của sự vật. Điều này không có nghĩa là phủ nhận tính hình thức của pháp luật, tuy nhiên, nếu chỉ hiểu pháp luật như vậy sẽ không phù hợp và khó có thể đưa ra lời giải chính xác cho nhiều bài toán đang hình thành trong xã hội như: mâu thuẫn và xung đột ngày càng xuất hiện trong xã hội, về mối quan hệ giữa nhà nước và xã hội, làm thế nào để đảm bảo tính hợp pháp, trật tự pháp luật và sự tồn tại của hệ thống pháp luật, khó tìm ra chứng cứ pháp lý. tách rời xã hội, trừu tượng, khó hiểu, không phản ánh đúng nhu cầu, mong muốn và lợi ích của xã hội và do đó pháp luật không thực hiện đúng chức năng vốn có của nó. Pháp luật phải được coi là một hiện tượng xã hội tồn tại khách quan mà con người có thể quan sát, nhận thức và mô tả được. Như vậy, sự xuất hiện và phát triển của hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa đã làm rối loạn đời sống kinh tế - xã hội của các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội. Từ dòng chảy này nảy sinh nhu cầu thực tiễn nhằm lập lại trật tự xã hội và nhu cầu nhận thức để giải quyết các vấn đề pháp lý. Xã hội học pháp luật ra đời vào cuối thế kỷ 19, góp phần giải quyết các vấn đề của thực tiễn pháp luật và phát triển mạnh mẽ vào đầu thế kỷ 20. Xã hội học pháp luật là một lĩnh vực nghiên cứu liên ngành giao thoa với xã hội học và luật học. Kể từ khi ra đời, đã có những tranh luận về nguồn gốc của xã hội học pháp luật, đó là khoa học pháp lý hay xã hội học?
4. Quan điểm của một số trường phái xã hội học pháp luật tiêu biểu
4.1 Trường phái xã hội học pháp lý châu Âu
Trong khi các học giả đều cho rằng xã hội học pháp luật ra đời ở châu Âu vào cuối thế kỷ 19, thì những tiền đề tư tưởng cho sự hình thành xã hội học pháp luật lại có từ thế kỷ trước. De La Brède - Montesquieu (1689 - 1755) là nhà tư tưởng người Pháp. Tác phẩm "L'Esprit du droit" của Montesquieu xuất bản năm 1748 là cơ sở cho việc nghiên cứu xã hội học pháp luật. Theo ông, pháp luật phải được coi là sự thật. Việc nghiên cứu các sự kiện giúp chúng ta khám phá ra nguyên nhân của những sự kiện này. Ông muốn nghiên cứu hệ thống pháp luật một cách khách quan như sự tồn tại của các sự kiện xã hội khác. Anh nói rằng: "trước khi luật được thành lập, có thể có những lo ngại về công lý" - Montesquieu, Esprit de la loi. “Quy luật, theo nghĩa rộng nhất, là những quan hệ tất yếu về bản chất của sự vật. Theo nghĩa này, mọi thứ đều có luật riêng của nó. Như vậy, bên trong quy luật cũng có quy luật như thế chi phối “bản chất của sự vật”. Phương pháp thực nghiệm là phương pháp duy nhất cho kết quả chính xác. Ông nghiên cứu pháp luật trong mối quan hệ với các hiện tượng xã hội qua cuốn sách Tinh thần pháp luật: “Aron cho rằng vấn đề Tinh thần của Pháp luật là mục đích chính của xã hội học nhằm làm cho lịch sử trở nên dễ hiểu… Aron coi Montesquieu với tư cách là một nhà xã hội học thậm chí còn hơn cả Comte và là một trong những nhà lý thuyết vĩ đại nhất của ngành này. Trong việc xây dựng xã hội học, có phải các thế hệ sau đã làm ít hơn việc đặt tên cho lĩnh vực nghiên cứu mà Montesquieu đã bắt đầu”, Durkhheim nhận xét? Jean Jacques Rousseau (1712 - 1778) sinh tại Genève, nhà nghiên cứu phong trào Khai sáng. Tác phẩm "Về khế ước xã hội" xuất bản năm 1762 giải thích quá trình hình thành xã hội và nhà nước theo quan điểm của lý thuyết về quyền tự nhiên và thỏa thuận xã hội. Theo ông, trật tự xã hội là quyền thiêng liêng làm cơ sở cho mọi quyền khác. Trật tự xã hội không tự nhiên mà có, nó được thiết lập trên cơ sở các quy ước. Hương ước được hình thành trên cơ sở nhu cầu tồn tại của con người. Để bảo vệ mình khỏi nguy cơ xa rời trạng thái tự nhiên thành một trạng thái không có luật pháp hay đạo đức, các cá nhân không có lựa chọn nào khác ngoài việc đoàn kết để tạo thành một lực lượng chung, được chỉ huy bởi một động cơ chung, khiến mọi người hành động hài hòa. "Mỗi chúng ta đều đặt bản thân và quyền hạn của mình dưới sự kiểm soát tối cao của ý chí chung, và chúng ta chấp nhận mọi tư cách thành viên." Di chúc chung phản ánh lợi ích chung của cộng đồng, và chính lợi ích chung của cộng đồng phải trở thành cơ sở của pháp luật. Nhưng để thực sự là ý chí chung thì đó phải là ý chí chung từ bên trong đối tượng và trong bản chất của nó, nó là của tất cả và áp dụng cho tất cả. Ý chí chung sẽ mất đi tính đúng đắn tự nhiên khi nó ủng hộ một đối tượng riêng lẻ nào đó. Nhân dân là người phải tuân theo pháp luật và là người làm ra pháp luật. Pháp luật bao gồm ba loại: luật cơ bản (luật chính trị), luật dân sự và luật hình sự, ngoài ba loại này còn có một điều quan trọng nữa đó là phong tục, tập quán và dư luận xã hội. Rousseau muốn xây dựng một thể chế chính trị dựa trên quyền quyết định tự do của các cá nhân, đó là khế ước xã hội. Theo Người, cơ quan chính trị có quyền lực tối cao phải là một “con người tập thể” và “con người tập thể” này có quyền lực tuyệt đối đối với các thành viên của nó. Tuy nhiên, quyền lực tối cao không thể vượt quá giới hạn của quy ước chung, tức là không thể vi phạm các thỏa thuận mà mọi người đã giao kết. Quyền tối cao là sự thống nhất không thể chia cắt. Thống nhất vì đó là ý chí chung của nhân dân, đại diện và bảo vệ lợi ích chung của nhân dân. Mặc dù bác bỏ quan điểm của Montesquieu về sự phân chia quyền lực thành các nhánh độc lập, Rousseau vẫn ủng hộ sự phân chia chức năng của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong đó quyền lập pháp luôn được thực hiện. Các nghiên cứu nhằm khám phá bản chất của pháp luật thông qua việc quy chiếu các điều kiện xã hội mà nó được thực hiện, có hai nhà xã hội học nổi tiếng là Emile Durkheim và Max Weber. Emile Durkhem (1858 - 1917) là người khởi xướng việc xây dựng lý thuyết chức năng trong xã hội học, những công trình nghiên cứu của ông có ý nghĩa lý luận và phương pháp luận to lớn đối với sự phát triển của xã hội học nói chung và xã hội học pháp luật nói riêng. Durkheim sống vào thời điểm nước Pháp bại trận trong Chiến tranh năm 1870, sau đó là cuộc nổi dậy và đàn áp đẫm máu của Công xã Paris năm 1871. Vì vậy, công việc của ông tập trung vào việc tìm ra luật để thiết lập trật tự xã hội. Mối quan tâm lớn nhất của Durkheim để gắn kết các xã hội lại với nhau là gì? Tại sao chúng không tan rã? Theo ông, chính pháp luật có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy và duy trì sự đoàn kết xã hội. Ông chỉ ra rằng khi xã hội phát triển từ chế độ thần quyền sang chủ nghĩa thế tục, từ chủ nghĩa tập thể sang chủ nghĩa cá nhân, luật pháp hướng tới sự đền bù thay vì chỉ trừng phạt đơn thuần. Tuy nhiên, hình phạt đóng một vai trò quan trọng trong việc thể hiện thái độ đạo đức chung mà nhờ đó sự đoàn kết xã hội được duy trì. Ông dùng khái niệm đoàn kết xã hội để chỉ mối quan hệ giữa cá nhân với xã hội, giữa các cá nhân với nhau. Không có sự đoàn kết xã hội, các cá nhân bị cô lập không thể hình thành xã hội như một chỉnh thể. Có hai loại đoàn kết xã hội: "đoàn kết cơ học", một hiện tượng bình thường của đời sống xã hội bởi vì nó được tìm thấy trong tất cả các loại hình xã hội và là một phần không thể thiếu của một cơ thể xã hội lành mạnh. Qua các thời kỳ khác nhau, tội phạm cũng thay đổi hình thức. Hành vi nào được coi là tội phạm khác nhau giữa các quốc gia. Tội ác là một hành động vi phạm lương tâm tập thể, nó đáng bị khiển trách vì nó làm cho lương tâm tập thể bực tức. Để một hành vi phạm tội điển hình biến mất trong xã hội, những cảm xúc tập thể bị tổn hại phải được tìm thấy trong lương tâm của mọi cá nhân. Thực tế cho thấy, nếu điều này xảy ra thì tội phạm không mất đi mà chỉ chuyển dạng vì nguyên nhân làm cạn kiệt nguồn tội phạm thì lập tức nảy sinh ra nguồn tội phạm mới. Ông nói thêm, một số tội ác đôi khi cần thiết cho sự phát triển của xã hội: “Theo luật Athen, Socrates là một tội nhân và sự kết án của ông ấy là công bằng. Nhưng tội ác của anh ta, đó là sự độc lập về tư tưởng, không chỉ hữu ích cho nhân loại mà còn cho đất nước của anh ta. Vì nó phục vụ để chuẩn bị một nền đạo đức và đức tin mới mà người Athen khi đó cần đến vì những truyền thống mà họ đã sống cho đến lúc đó không còn phù hợp với điều kiện tồn tại của họ nữa. Nhưng trường hợp của Socrates không phải là trường hợp cá biệt, nó tái xuất hiện theo chu kỳ trong lịch sử. Ông khẳng định, nếu coi hiện tượng tội phạm là căn bệnh của xã hội, trừng phạt là liều thuốc chữa bất ổn, thì thường coi hành chính trở thành một dạng quyền lực có cấu trúc hơn. Hình thức cai trị duy lý dựa trên pháp luật, trong đó quyền lực được thể hiện thông qua bộ máy hành chính. Trong ba loại quyền lực nhà nước lý tưởng, Weber coi quyền lực nhà nước hành chính là phát triển nhất vì nó có một “trật tự pháp lý” bao gồm các quy phạm hợp lý. Ông cho rằng sự phát triển của pháp luật là một quá trình tiến hóa từ tính phi lý đến tính hợp lý (tức là sự hợp lý hóa). Ở đây, tính hợp lý của pháp luật có nghĩa là một hệ thống chặt chẽ các quy tắc, logic mà quy tắc và quá trình ra quyết định là hợp lý. Tôn trọng trật tự này là do trật tự pháp lý và hình thức chuyên nghiệp và quan liêu của chính phủ. Đặc điểm nổi bật của quyền lực hợp pháp-lý trí là tính vô tư và khách quan hình thức của nó: cũng như việc thực thi pháp luật không để hận thù hay đam mê, tình yêu hay nhiệt tình... không để những thứ cá nhân ảnh hưởng đến công việc mà chỉ đơn giản là nghĩa vụ. Bất hợp lý pháp lý là việc sử dụng các phương tiện khác ngoài logic hoặc lý do để đưa ra quyết định trong các trường hợp. Trong các xã hội được thống trị bởi một nhà lãnh đạo lôi cuốn, tư duy pháp lý là phi lý cả về hình thức và nội dung. Công lý có nghĩa là sức hút lôi cuốn, sự phù hợp với người lãnh đạo, trong một xã hội như vậy hoàn toàn không có quyền lực. Theo Weber, loại hệ thống pháp lý này luôn mang lại lợi nhuận. Để đạt được một tính hợp lý nhất định, cần phải hệ thống hóa một trật tự pháp lý mà ông thấy luật pháp Anh vắng mặt một cách bất thường. Vậy làm thế nào để bạn giải thích sự trỗi dậy của chủ nghĩa tư bản ở Anh? Câu trả lời của ông là: Thứ nhất, mặc dù luật Anh không có trật tự hệ thống như luật La Mã, nhưng nó là một hệ thống pháp luật có tính hình thức cao (như trong thủ tục tố tụng dân sự tuân theo các thủ tục cụ thể và chính xác của các tiền lệ cụ thể đối với các vụ án dân sự cụ thể). Điều này đã ổn định hệ thống pháp luật, tạo ra mức độ chắc chắn và khả năng dự đoán cao hơn trong môi trường kinh doanh; thứ hai, hoạt động hành nghề luật sư ở Anh, trong thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư bản, tập trung chủ yếu ở lĩnh vực thương mại (The City). Luật sư thường tư vấn cho các chuyên gia và các tập đoàn lớn. Điều này giúp họ đưa ra yêu cầu thay đổi luật dựa trên mối quan hệ kinh doanh; Thứ ba, luật sư ở Vương quốc Anh rất chuyên nghiệp và hành động như những thành viên của hội thủ công, luật được ban hành để ngăn chặn các vụ kiện trong tương lai. m Weber nhấn mạnh tầm quan trọng của pháp luật với tư cách là một phần của quá trình duy lý góp phần hình thành và phát triển xã hội hiện đại và chủ nghĩa tư bản ở phương Tây. Đây là những quan niệm làm cơ sở cho sự ra đời của xã hội học pháp luật. Các công trình nghiên cứu toàn diện về xã hội học pháp luật gắn liền với sự đóng góp của các học giả nổi tiếng như Eugen Ehrlich, Leon Petrazycki, Georges Gurvitch... Nghiên cứu xã hội học pháp luật mở rộng khái niệm pháp luật ra ngoài phạm vi tiếp cận nghiên cứu xã hội học pháp luật, bản thân quy phạm pháp luật không nói lên điều gì. Xã hội học muốn khám phá tính quy luật của đời sống pháp luật thì phải nghiên cứu cả các hiện tượng kinh tế và xã hội, bởi vì sự phát triển của pháp luật chỉ có thể được hiểu rõ nếu nó liên quan đến sự phát triển kinh tế và xã hội. Nhà lập pháp không làm luật mà chỉ tìm ra luật. Vì vậy, nhiệm vụ của xã hội học pháp luật là đi tìm nguồn gốc và ảnh hưởng của pháp luật chứ không chỉ nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật và giải thích quy phạm. Ehrlich khẳng định tính xã hội và tính đa nguyên của pháp luật, ông cho rằng có hai loại pháp luật: pháp luật của nhà nước và pháp luật của đời sống thực tế. Tòa án và cơ quan hành chính cũng phải có quyền tự do lập pháp. Mặt khác, trong bất kỳ tổ chức hay hiệp hội nào của con người (bộ lạc, gia đình, công ty, hiệp hội, xã...) đều có một trật tự dành riêng cho họ, trật tự mà họ tự đặt ra được gọi là thỏa thuận, hợp đồng hoặc quy định hoặc những tên gọi khác. Nhưng nó khác luật nhà nước ở chỗ nó do liên minh con người tự lập ra, và luôn có một mệnh lệnh mà con người tự nguyện tuân theo. Vì vậy, cơ sở và bản chất của pháp luật phải được tìm thấy trong chính xã hội. Phương pháp nghiên cứu tốt nhất là thực nghiệm: quan sát cuộc sống, hành vi con người, nghiên cứu phong tục tập quán, văn bản pháp luật, hồ sơ thi hành pháp luật... Nguồn pháp luật quan trọng nhất thường là các quyết định của tòa án, và một yếu tố quan trọng nữa là văn bản. Petrazycki cho rằng luật pháp tồn tại dưới nhiều hình thức, bao gồm các quy định điều hành nhóm, tiền lệ pháp, tập quán, v.v. Quyền nằm trong trải nghiệm có ý thức với tư cách là sự bắt buộc, thôi thúc cá nhân thực hiện một số nhiệm vụ tương ứng với một thẩm quyền nhất định. Mọi người tham gia vào quá trình thực thi pháp luật đã xác định trước những kỳ vọng về những gì pháp luật yêu cầu trong một tình huống nhất định. Nguồn gốc của những mệnh lệnh, mong đợi này không nằm ngoài các nguồn luật như luật, tiền lệ, tập quán… thịnh hành trong một xã hội cụ thể. Cần có khả năng tiếp cận nghiên cứu các hiện tượng pháp lý bằng lương tâm và trực giác. Khám phá quy trình luật như nó tồn tại phải dựa trên sự phân tích các mệnh lệnh và kỳ vọng trong lương tâm cá nhân, đó là một phẩm chất tâm lý cụ thể có trong quy tắc đạo đức. Georges Gurvitch (1894 -1965) là nhà xã hội học pháp luật người Pháp, người đặt nền móng cho sự hình thành có hệ thống lý thuyết xã hội học pháp luật. Ông cho rằng pháp luật thống nhất bởi những biểu hiện đồng thời dưới những hình thức và mức độ tương tác xã hội khác nhau. Mục đích của ông là hình thành khái niệm "quy luật xã hội" như một quy luật tương tác và hội nhập. Giống như các học giả khác, ông chỉ ra rằng luật pháp không chỉ là các quy tắc được ban hành và thực thi bởi các cơ quan nhà nước, chẳng hạn như cơ quan lập pháp, tòa án và cảnh sát. Nhóm xã hội, cộng đồng xã hội khác Gurvitch chỉ ra rằng đối tượng nghiên cứu của xã hội học pháp luật bao gồm ba lĩnh vực: thứ nhất, nghiên cứu lĩnh vực vi mô, bao gồm cách tiếp cận theo chiều ngang, tức là các quy phạm pháp luật có tính tổ chức được bảo đảm bởi sự trừng phạt và cưỡng chế từ bên ngoài, hơn nữa, nó còn nghiên cứu các quy phạm pháp luật hình thành và lan truyền một cách tự phát trong cộng đồng xã hội; tiếp cận theo chiều dọc, tức là các hình thức pháp luật vận hành trên cơ sở thứ bậc phụ thuộc lẫn nhau với từng quan hệ xã hội cụ thể. Thứ hai, nghiên cứu lĩnh vực vĩ mô là nghiên cứu mối quan hệ giữa hiện thực xã hội và lĩnh vực pháp luật. Lĩnh vực cuối cùng là nghiên cứu về nguồn gốc của pháp luật, bao gồm các quy tắc chỉ đạo của bất kỳ hệ thống pháp luật nào và các yếu tố tác động đến hệ thống pháp luật đó như kinh tế, chính trị, văn hóa... Gurvitch là người đã mở rộng lĩnh vực pháp luật của pháp luật theo hướng đa nguyên pháp lý. Theo ông, pháp luật là một bộ phận cấu thành và không thể tách rời của các tổ chức xã hội, nhóm xã hội và cộng đồng. Xã hội học pháp luật có nhiệm vụ phân tích các quy phạm của hệ thống pháp luật trong mối tương tác với các nhóm xã hội, các tầng lớp xã hội về giới tính, chủng tộc, tôn giáo và các đặc điểm xã hội khác. Hơn nữa, nó còn nghiên cứu các quy tắc nội tại của các nhóm xã hội và cộng đồng xã hội như luật sư, doanh nhân, nhà khoa học, thành viên của các đảng phái chính trị, v.v.
4.2 Trường Xã hội học Pháp lý Hoa Kỳ
Tại Hoa Kỳ, nghiên cứu về xã hội học pháp luật đã phát triển vào đầu thế kỷ 20, các trung tâm nghiên cứu được tài trợ theo trình tự pháp lý với nhu cầu thay đổi luật pháp, điều mà chính lý thuyết pháp luật phải đối mặt. Tuy nhiên, ở một mức độ nào đó, điều này mâu thuẫn với những nhu cầu phổ biến hơn của thời đại và của xã hội, đặc biệt là nhu cầu lập pháp theo thiết kế. Để giải quyết vấn đề này, R. Pound đã đưa ra ý tưởng về "quy luật tự nhiên tương đối". Mục đích của nó là kết hợp cách tiếp cận thực dụng với cách tiếp cận chức năng. “Xu hướng phân tích quy phạm pháp luật vận hành như thế nào và xây dựng quy phạm ra sao để đạt được kết quả hơn là ngồi phân tích nội dung trừu tượng của nó. Vì vậy, cần nghiên cứu mục đích của luật. Chức năng là để đạt được mục tiêu”. “Chúng tôi kêu gọi sự hỗ trợ của triết học, đạo đức học, khoa học chính trị và xã hội học để giúp chúng tôi giải quyết những vấn đề mà chúng tôi coi là vấn đề của luật học. Cần phải nghiên cứu pháp luật trong tất cả các quan hệ của nó với tư cách là một khâu chuyên biệt của cái được hiểu theo nghĩa rộng là khoa học xã hội. Theo quan điểm của R. Pound, luật không chỉ là những gì nằm trên giấy tờ. Từ ý niệm “quy luật tự nhiên tương đối” với hàm ý quy luật có tính chất tự nhiên tương đối vì nó là mệnh đề xuất phát từ nhu cầu và lợi ích cụ thể của xã hội ở một thời kỳ nhất định. Trên thực tế, nền tảng của định đề rằng vấn đề xây dựng luật pháp nằm ở nhu cầu và lợi ích thực sự, một thuật ngữ mà ông cho là khá phù hợp, mà ông gọi là “kỹ thuật xã hội”. Ông gọi lực lượng trật tự là "kỹ sư xã hội" vì họ là những người đảm bảo sự thỏa hiệp và hài hòa lợi ích xã hội. Hơn nữa, “kỹ sư xã hội” là một phạm trù mà theo ông, có thể loại trừ sự can thiệp của nhà nước vào khu vực kinh tế tư nhân cũng như các lợi ích tư nhân. Bởi vì trong một xã hội văn minh, mọi người phải tin rằng họ không bị tấn công và có thể kiểm soát bản thân và đạt được mục tiêu của mình bằng các giá trị xuất phát từ công việc của chính họ, phù hợp với hệ thống xã hội và điều kiện kinh tế hiện hành. Khi tham gia vào các mối quan hệ xã hội, họ sẽ cư xử trung thực và phù hợp với mong đợi của xã hội và các chuẩn mực xã hội. Và chúng ta phải tin rằng mỗi người thể hiện trong hành động của mình sự trung thực cần thiết và phải sửa chữa những thiệt hại do hành động của mình gây ra. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, các nhà xã hội học pháp luật Mỹ tập trung nghiên cứu vai trò của pháp luật trong xã hội, nổi bật là Talcott Parsons (1902 - 1979), học giả chức năng luận. Theo ông, bất kỳ hệ thống xã hội nào cũng bao gồm các hệ thống nhỏ hơn, tương ứng với các nhu cầu. Nhu cầu của hệ thống đòi hỏi các thành phần của nó phải thực hiện đầy đủ các chức năng của hệ thống nhằm thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của hệ thống. Nếu một bộ phận hoạt động không tốt sẽ phải thay đổi, thậm chí mất đi và một bộ phận khác được hình thành để thay thế, bộ phận hoạt động tốt sẽ tăng cường sức mạnh. hệ thống. Tuy nhiên, xét về bản chất, các chủ thể luôn tìm cách dung hòa để duy trì sự cân bằng của hệ thống xã hội. Lý do mọi người sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của hệ thống trước nhu cầu của cá nhân là vì theo bản năng, họ muốn tránh nỗi đau thể xác cũng như sự trừng phạt của xã hội. Ở Hoa Kỳ, có nhiều quan điểm lý thuyết khác nhau, trong đó một số đưa ra lập luận chống lại chủ nghĩa chức năng và cho rằng luật pháp là công cụ của quyền lực. Nhà lý thuyết xã hội học Philip Selznick lập luận rằng luật hiện đại ngày càng đáp ứng nhu cầu của xã hội và phải được tiếp cận một cách có đạo đức. Rolanld Dworkin khẳng định rằng pháp luật không chỉ bao gồm các quy phạm pháp luật mà còn bao gồm cả các quy phạm phi quy phạm. Giống như khi tòa án giải quyết một vụ án khó, tòa án sẽ dựa vào các tiêu chuẩn như đạo đức, chính trị để đưa ra phán quyết. Kết luận này được rút ra từ kết quả phân tích một trường hợp khó. Đây là phán quyết của tòa án New York trong vụ Rigg kiện Palmer năm 1889 (Elmer Palmer đã giết ông nội của mình bằng cách đầu độc). Di chúc được để lại ủng hộ việc thừa kế tài sản của Elmer Palmer. Vấn đề đặt ra là người bị giết có được hưởng thừa kế hay không thì pháp luật hiện hành về thừa kế theo di chúc không có quy định về việc này. Như vậy, người bị giết có thể có quyền hưởng di sản thừa kế theo nội dung di chúc. Tuy nhiên, thẩm phán tòa án New York cho biết việc thực thi pháp luật phải dựa trên nguyên tắc "Không ai thu lợi từ hành vi sai trái của mình". Một kẻ sát nhân không thể thừa kế các nạn nhân của chính mình và tòa án đã quyết định tước quyền thừa kế của Elmer Palmer.
5. Vấn đề nghiên cứu xã hội học pháp luật ở Việt Nam
Ở Việt Nam, xã hội học pháp luật là một lĩnh vực nghiên cứu mới do các luật sư khởi xướng. Đứng trước yêu cầu của thực tiễn đời sống pháp luật: vị trí, vai trò của pháp luật trong xã hội hiện đại như thế nào? Làm thế nào để xây dựng văn bản quy phạm pháp luật phù hợp điều chỉnh các quan hệ xã hội? Làm thế nào để thực thi pháp luật làm việc? Làm sao để những quy định của pháp luật được người dân tiếp nhận và chuyển hóa thành hành vi, thói quen, lối sống đúng pháp luật? Đầu những năm 90 của thế kỷ trước, Bộ môn Lý luận và Xã hội học pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp luật thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn được thành lập nhằm ứng dụng xã hội học trong quá trình giải quyết các vấn đề pháp lý. Các lý luận về xã hội học pháp luật đầu tiên được tiếp cận nghiên cứu bởi nhà luật học Đào Trí Úc, là Viện trưởng Viện Nhà nước và Pháp luật cùng các cộng sự đã đưa Xã hội học pháp luật vào chương trình đào tạo sau đại học của chuyên ngành Luật học. Các công trình đầu tiên được nghiên cứu bởi nhà luật học Đào Trí úc có thể kể đến: Vai trò của xã hội học lập pháp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay; Xã hội học thực hiện pháp luật - những khía cạnh nhận thức cơ bản... nghiên cứu về xã hội học pháp luật đã được công bố. Trước tiên phải kể đến các tác giả Thanh Lê với cuốn “Xã hội học chuyên biệt”, xuất bản năm 2000, trong đó có đề cập nội dung cơ bản của xã hội học pháp luật và cuốn “Xã hội học tội phạm”, xuất bản năm 2002; Tác giả Lê Tiêu La với bài viết “Bước đầu tìm hiểu về xã hội học pháp luật” đăng trên Tạp chí Xã hội học số 1/2005; Tác giả Mai Quỳnh Nam với “Nghiên cứu dư luân xã hội về hoạt động của Quốc hội” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 1/2006 và “Xã hội học với hoạt động lập pháp” đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 1/2009 đã phân tích vai trò quan trọng của việc nghiên cứu dư luận xã hội nói riêng và xã hội học nói chung đối với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta. Lĩnh vực xã hội học pháp luật hiện nay cũng được các học viên, nghiên cứu sinh chuyên ngành xã hội học lựa chọn để nghiên cứu. Từ năm 2010 đến nay, nhiều công trình về xã hội học pháp luật đã được xuất bản làm nguồn tư liệu phong phú, phục vụ cho việc học tập và nghiên cứu xã hội học pháp luật như: Xã hội học pháp luật của TS. Ngô Văn Nhân, xuất bản năm 2010; Xã hội học pháp luật của tác giả Trần Đức Châm, xuất bản năm 2013... Những nghiên cứu xã hội học pháp luật do các luật gia và xã hội học thực hiện trong thời gian qua đã giúp mở ra khả năng nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn về bản chất của pháp luật và sự tác động qua lại của pháp luật đối với thực tiễn xã hội. Nghiên cứu vai trò, ý nghĩa của các yếu tố xã hội ảnh hưởng đến sự hình thành và vận hành của pháp luật. Đối tượng nghiên cứu của xã hội học pháp lý là hành vi pháp lý của các chủ thể, đặc biệt là hành vi ra quyết định của thẩm phán; chỉ nghiên cứu pháp luật thông qua các mối quan hệ qua lại về mặt xã hội giữa chúng theo cách tiếp cận chức năng. Đối với trào lưu pháp luật tự do ở châu Âu, xã hội học pháp luật phải bắt đầu từ việc nghiên cứu pháp luật linh hoạt; nghĩa là không nghiên cứu chính bản thân chuẩn mực pháp luật, mà phải nghiên cứu cái thực tiễn cụ thể, pháp luật được xem là một công cụ chính sách của chính phủ nên đối tượng của xã hội học pháp luật là các quan hệ quyền lực chính trị và pháp luật, hợp đồng, sự ủy nhiệm và thừa kế... Quan điểm của các nhà xã hội học pháp luật Macxít cho rằng, nhiệm vụ của xã hội học pháp luật bao gồm việc nghiên cứu mối quan hệ pháp luật như là một hiện tượng xã hội đặc thù, nghiên cứu chức năng xã hội của pháp luật, quá trình của việc chuyển chuẩn mực pháp luật thành hành vi xã hội của các giai cấp, tầng lớp xã hội, các nhóm xã hội và các cá nhân; những yếu tố xã hội của pháp luật cùa quá trình xây dựng pháp luật, thực hiện pháp luật và các cơ chế của sự tương tác đó. Chung quy lại, quan điểm Macxít tập trung nghiên cứu ba vấn đề cơ bản, gồm: Tính quy định xã hội học pháp luật; Chức năng xã hội của pháp luật; Sự tác động của pháp luật đối với các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội cũng như mối liên hệ của pháp luật với kinh tế, chính trị, đạo đức. Trong bối cảnh xã hội ở Việt Nam, việc xác định đối tượng nghiên cứu của xã hội học pháp luật cần xuất phát từ khách thể của khoa học này - pháp luật với tư cách là pháp luật thực định, - Nghiên cứu những quy luật và tính quy luật của quá trình phát sinh, tồn tại, hoạt động của pháp luật trong đời sống xã hội nói chung, trong mối liên hệ của nó với các loại chuẩn mực xã hội khác nhau, như chuẩn mực chính trị, chuẩn mực tôn giáo, chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực phong tục, tập quán, chuẩn mực thẩm mĩ... - Nghiên cứu tính quyết định xã hội của pháp luật thông qua việc phân tích nguồn gốc, bản chất xã hội, vai trò và các chức năng xã hội của pháp luật. - Nghiên cứu tính đặc thù, tính đặc thù của pháp luật và sự tương tác của pháp luật trong hệ thống xã hội và với tiểu mô đun cơ cấu xã hội, vai trò công cụ điều chỉnh của pháp luật với tiểu mô đun này. - Nghiên cứu bản chất, phân loại, hậu quả và cơ chế của các hành vi sai lệch chuẩn mực pháp luật; biện pháp phòng, chống những sai lệch so với chuẩn mực pháp luật. - Nghiên cứu các khía cạnh xã hội của việc xây dựng pháp luật, thực hiện và thi hành pháp luật; các yếu tố xã hội tác động đến việc xây dựng, triển khai và thi hành pháp luật cũng như các biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả của các hoạt động này. - Nghiên cứu nhận thức pháp luật, hành vi pháp luật và lối sống pháp luật của các bộ phận dân cư, các nhóm xã hội cũng như các cá nhân trong xã hội. - Phân tích và thực hiện các hoạt động thống kê, dự báo xu hướng biến đổi, phát triển của pháp luật trong từng giai đoạn phát triển của xã hội. Pháp luật gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước và pháp luật; quan hệ cơ bản, nguyên tắc, phương pháp, hình thức tổ chức quyền lực nhà nước, thể chế lập pháp và xây dựng pháp luật. Đối tượng nghiên cứu của xã hội học pháp luật là các quy luật xã hội, quá trình xã hội hình thành, tồn tại và vận hành của pháp luật trong xã hội, trong mối quan hệ với các loại quy phạm xã hội khác, nguồn gốc, bản chất và chức năng xã hội của pháp luật; các khía cạnh xã hội của hoạt động lập pháp và hành pháp, các sự kiện và hiện tượng pháp lý phản ánh trong hoạt động của các cá nhân và các nhóm xã hội. Trên cơ sở điều tra xã hội học và điều tra các vấn đề, khía cạnh xã hội của các sự kiện, hiện tượng pháp luật, xã hội học pháp luật phát hiện những lỗ hổng, sự chưa thống nhất trong hệ thống pháp luật hiện hành. Thông qua việc nghiên cứu các khía cạnh xã hội của hoạt động lập pháp và hành pháp nhằm khái quát thực tiễn, đề xuất các chuẩn mực pháp luật mới góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật. Xã hội học pháp luật là một lĩnh vực khoa học liên ngành giữa xã hội học và luật học (tính liên ngành vốn có ở nhiều ngành xã hội học khác), nghiên cứu khía cạnh xã hội của pháp luật bằng các công cụ của xã hội học. Lý luận về nhà nước và pháp luật tuy là lĩnh vực nghiên cứu của luật học nhưng nó lại quan tâm đến khía cạnh pháp lý của nhà nước và pháp luật. Lý luận về nhà nước và pháp luật và xã hội học pháp luật phụ thuộc lẫn nhau. Lý luận về nhà nước và pháp luật cung cấp cho xã hội học pháp luật một hệ thống lý luận, lý thuyết cho rằng họ là vợ chồng nhưng thực chất không còn là vợ chồng, không còn yêu nhau chung thủy, không tôn trọng, không quan tâm, giúp đỡ nhau; chia sẻ công việc gia đình với nhau. Trong trường hợp này, chỉ thông qua điều tra xã hội học pháp lý mới có thể có những lý do thực tế để hỗ trợ cho việc nghiên cứu hôn nhân và gia đình. Mặt khác, cách tiếp cận xã hội học pháp luật khi nghiên cứu nguyên nhân dẫn đến ly hôn cũng góp phần quan trọng trong việc đánh giá đúng bản chất quan hệ vợ chồng đã thực sự rơi vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân có đạt được hay không. Theo quy định của pháp luật, tòa án phải xem xét kỹ nguyên nhân dẫn đến hậu quả nghiêm trọng của vợ, chồng mới giải quyết ly hôn. Nhưng khi xem xét hồ sơ tòa án cho thấy, khi thuận tình ly hôn, các cặp vợ chồng thường thỏa thuận đưa ra những lý do như không hợp nhau để che giấu nguyên nhân thực sự, làm sai lệch sự thật của vụ án. Ly hôn là kết quả của một quá trình xã hội, chịu tác động của nhiều yếu tố, chỉ có xem xét các yếu tố này mới đánh giá được bản chất của hôn nhân thông qua các bằng chứng thực nghiệm rút ra từ việc nghiên cứu ý kiến của Thẩm phán, Hội thẩm, đương sự và gia đình họ. Cần có những nghiên cứu của xã hội học pháp luật để làm rõ bản chất của các quan hệ được pháp luật hôn nhân và gia đình điều chỉnh.
Nội dung bài viết:
Bình luận