
vùng đặc quyền kinh tế nước ta là
1. Khái niệm vùng đặc quyền kinh tế
Khái niệm này được quy định tại Điều 15 Luật Biển Việt Nam 2012, theo đó vùng đặc quyền kinh tế được hiểu là vùng biển tiếp liền và ở ngoài lãnh hải Việt Nam, hợp với lãnh hải tạo thành vùng biển. có chiều rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Trong vùng đặc quyền kinh tế, quốc gia có độc quyền khai thác và sử dụng tài nguyên biển. Là một trong những vùng đất nước có quyền chủ quyền
Để hiểu vùng đặc quyền kinh tế, cần phân biệt khái niệm này với khái niệm lãnh hải. Vùng đặc quyền kinh tế không phải là lãnh hải vì nó nằm ngoài lãnh hải và không thuộc biển cả, vì theo điều 86 UNCLOS 1982, biển cả nằm ngoài ranh giới của khu vực này. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong tuyên bố ngày 12 tháng 5 năm 1977, xác lập vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam rộng 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Ở những nơi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam chưa hết 200 hải lý và gặp vùng đặc quyền kinh tế của các nước khác như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, v.v... thì có đường biên giới phân chia vùng đặc quyền. quốc gia được xác định trên cơ sở thỏa thuận phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế.
2. Chế độ pháp lý với vùng đặc quyền kinh tế
Theo Điều 16 Luật Biển Việt Nam 2012, trong Vùng đặc quyền kinh tế, chế độ pháp lý được thực hiện như sau:
- Nhà nước Việt Nam được thực hiện các quyền sau đây:
Quyền chủ quyền đối với việc thăm dò, khai thác, quản lý và bảo tồn tài nguyên ở vùng nước phía trên đáy biển, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển; về các hoạt động khác nhằm thăm dò và khai thác khu vực này vì mục đích kinh tế;
Quyền tài phán quốc gia đối với việc lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình ngoài khơi; nghiên cứu khoa học biển, bảo vệ và gìn giữ môi trường biển;
Các quyền và nghĩa vụ khác theo luật pháp quốc tế.
- Chế độ pháp lý đối với các quốc gia khác trong vùng đặc quyền kinh tế:
Nhà nước tôn trọng quyền tự do hàng hải và hàng không; quyền đặt dây cáp, đường ống dẫn ngầm và các hoạt động sử dụng biển hợp pháp của quốc gia khác trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam theo quy định của Luật Biển Việt Nam 2012 và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, không làm phương hại đến quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích quốc gia trên biển Việt Nam.
Việc lắp đặt cáp và ống luồn dây điện ngầm phải được sự chấp thuận bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam.
Tổ chức, cá nhân nước ngoài được tham gia thăm dò, sử dụng, khai thác tài nguyên, nghiên cứu khoa học, lắp đặt thiết bị và làm việc trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trên cơ sở điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, hợp đồng phải được ký kết theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc được Chính phủ Việt Nam ủy quyền theo quy định của pháp luật quốc tế hiện hành.
Các quyền liên quan đến đáy biển và lòng đất dưới đáy biển được thực hiện theo quy định về thềm lục địa và chế độ pháp lý của thềm lục địa (Điều 17, 18 Luật Biển Việt Nam 2012).
Nội dung bài viết:
Bình luận