
vùng đặc quyền kinh tế là vùng
1. Vùng đặc quyền kinh tế là gì?
Vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển kéo dài từ các quốc gia ven biển hoặc các quốc gia quần đảo, nằm bên ngoài và tiếp liền với lãnh hải. Là vùng biển có chiều rộng không quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.
Vùng đặc quyền kinh tế lần đầu tiên được ghi nhận trong Công ước Luật biển năm 1982, đây được coi là thắng lợi của cuộc đấu tranh của các nước mới giành độc lập và các nước đang phát triển.
Vùng đặc quyền kinh tế không phải là lãnh hải vì nó nằm ngoài lãnh hải và không thuộc biển cả, vì theo điều 86 UNCLOS 1982, biển cả nằm ngoài ranh giới của khu vực này. Trong Luật Biển Việt Nam 2012, tại Điều 15 và 16 cũng ghi nhận vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển tiếp liền và ở ngoài lãnh hải Việt Nam, hợp với lãnh hải tạo thành vùng biển có chiều rộng là 200 hải lý, tính từ đường cơ sở. Nhà nước Việt Nam có quyền chủ quyền đối với các hoạt động thăm dò, khai thác, quản lý và bảo tồn tài nguyên ở các vùng nước phía trên đáy biển, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển và các hoạt động khác nhằm thăm dò, khai thác khu vực này vì mục đích kinh tế. mục đích.
Việc giải quyết trên đã làm rõ một số vấn đề như sau:
Thứ nhất, về vị trí, vùng đặc quyền kinh tế nằm bên ngoài lãnh thổ của quốc gia ven biển, tiếp liền với lãnh hải, có biên giới bên trong là biên giới quốc gia trên biển, biên giới bên ngoài là đường mà mỗi quốc gia ven biển có điểm. cách đường cơ sở không quá 200 hải lý.
Thứ hai, về chiều rộng, vùng đặc quyền kinh tế không kéo dài quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở.
Thứ ba, về vùng tiếp giáp lãnh hải, vì vùng đặc quyền kinh tế và vùng tiếp giáp lãnh hải đều có đường biên giới bên trong là biên giới quốc gia trên biển nên chiều rộng của vùng đặc quyền kinh tế không được xác định cách quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở trong khi chiều rộng của vùng tiếp giáp lãnh hải không vượt quá 24 hải lý tính từ đường cơ sở nên vùng đặc quyền kinh tế bao trùm cả vùng tiếp giáp lãnh hải. Thứ tư, chế độ pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế sẽ bao gồm cả các quyền của quốc gia ven biển và các quyền của các quốc gia khác được quy định trong Công ước. Đây chính là đặc điểm tạo nên sự khác biệt về chế độ pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế với các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia. Điều này xuất phát từ vị trí vùng biển này cũng như các vùng biển khác thuộc chủ quyền quốc gia, tuy nằm ngoài lãnh thổ của quốc gia ven biển nhưng lại không thuộc lãnh thổ quốc tế nên mới được ghi nhận. quyền của các quốc gia khác.
Ngoài ra, Việt Nam có quyền tài phán đối với việc lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình ngoài khơi, nghiên cứu khoa học biển, bảo vệ và gìn giữ môi trường biển.
2. Chế độ pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế
Vùng đặc quyền kinh tế là một vùng biển cụ thể, thể hiện sự cân bằng giữa “các quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển” với “các quyền và tự do của các quốc gia khác”.
Theo Điều 16 Luật Biển Việt Nam 2012 quy định về chế độ pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế:
- Theo Công ước Luật biển 1982, trong vùng đặc quyền kinh tế, quốc gia ven biển sẽ có các quyền sau đây:
Quyền chủ quyền đối với việc thăm dò và khai thác, bảo tồn và quản lý tài nguyên thiên nhiên, dù có sinh vật hay không, của vùng nước bên trên đáy biển, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như đối với các hoạt động khác nhằm thăm dò và khai thác chúng vì mục đích mục đích kinh tế như sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió.
Quyền tài phán theo Công ước về lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, thiết bị và cấu trúc, nghiên cứu khoa học biển, bảo vệ và gìn giữ môi trường biển và các quyền và nghĩa vụ khác ngoài những quy định của Công ước về Luật biển.
Để thực hiện hiệu quả quyền chủ quyền của mình đối với các nguồn tài nguyên trong vùng đặc quyền kinh tế của mình, mỗi quốc gia ven biển có quyền tài phán đối với việc lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và cấu trúc. Quyền tài phán này của quốc gia ven biển không chỉ mở rộng đối với các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình nằm trong cột nước bên trong vùng đặc quyền kinh tế, mà còn đối với các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình nằm dưới đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của khu vực. Công ước Luật biển năm 1982 trao cho các quốc gia ven biển quyền tài phán đối với việc bảo vệ môi trường biển chống ô nhiễm từ nhiều nguồn khác nhau.
b.Trong vùng đặc quyền kinh tế của một quốc gia ven biển, tất cả các quốc gia, dù có biển hay không giáp biển, đều được hưởng, theo các điều kiện quy định bởi các quy định liên quan của Công ước về Luật biển 1982, ba quyền tự do: cơ bản sau:
- Quyền tự do hàng hải: Trong vùng đặc quyền kinh tế, tàu thuyền của tất cả các nước được tự do đi lại mà không cần sự cho phép của quốc gia ven biển. Quyền tài phán đối với các tàu nước ngoài thuộc về Quốc gia treo cờ, trừ hai trường hợp:
(i) vi phạm liên quan đến các lĩnh vực thuộc chủ quyền. (ii) các khu vực thuộc quyền tài phán của quốc gia ven biển.
Hành vi vi phạm của tàu thuyền nước ngoài trong hai trường hợp trên sẽ thuộc thẩm quyền của quốc gia ven biển.
- Quyền tự do bay qua: Vì vùng trời phía trên vùng đặc quyền kinh tế là vùng trời quốc tế nên máy bay của tất cả các nước đều có quyền bay qua mà không phải xin phép quốc gia ven biển. đồng thời, quyền tài phán đối với máy bay thuộc về quốc gia có máy bay được đăng ký. Tuy nhiên, trong quá trình bay, tàu bay nước ngoài phải luôn tuân thủ các quy định về an toàn hàng không cũng như các quy định về an toàn bay được quy định trong các điều ước quốc tế và các văn bản do Tổ chức hàng không dân dụng cấp quốc tế ban hành.
- Tự do đặt dây cáp và đường ống dẫn ngầm: Mỗi quốc gia có quyền tự do đặt dây cáp và đường ống dẫn ngầm trong vùng đặc quyền kinh tế của mình mà không phải xin phép quốc gia ven biển, sửa chữa dây cáp, đường ống dẫn ngầm hiện có mà không bị cản trở hoặc bị quốc gia ven biển cản trở. Ngoài ra, quyền tài phán đối với cáp và ống dẫn ngầm thuộc về quốc gia nơi đặt cáp và ống dẫn ngầm đó. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện quyền này, các quốc gia khác không được làm ảnh hưởng đến việc thực hiện các quyền của quốc gia ven biển, đặc biệt phải quan tâm đến việc bảo vệ môi trường.
Nội dung bài viết:
Bình luận