1. Khái niệm vùng đặc quyền kinh tế
Vùng đặc quyền kinh tế là vùng nằm ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải, chịu một chế độ pháp lý riêng quy định tại Phần V - Vùng đặc quyền kinh tế của Công ước Luật biển 1982, theo đó các quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển, các quyền và tự do của các quốc gia khác được điều chỉnh bởi các quy định thích hợp của Công ước. Vùng biển này rộng 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.
Khái niệm và sự hình thành khu vực này trong lịch sử phát triển của luật biển quốc tế bắt nguồn từ việc ngày 28/9/1945, Tổng thống Hoa Kỳ Truman đã ra tuyên bố về đánh cá ven bờ ở một số vùng biển cả, trong đó Hoa Kỳ đề xuất thiết lập “khu bảo tồn một phần nhất định của vùng biển khơi tiếp giáp với bờ biển Hoa Kỳ, nơi hoạt động đánh bắt cá đã và sẽ diễn ra ở mức độ đáng kể trong tương lai” 3. Các nước Mỹ Latinh như Chile, Peru và Ecuador đã mở rộng lãnh hải của họ lên 200 hải lý, dưới tên gọi vùng nước thuộc quyền sở hữu, vùng lãnh hải thuộc quyền sở hữu, loại bỏ quyền tự do hàng hải và các quyền tự do khác trên biển cả. Một số quốc gia khác cũng tuyên bố có vùng đánh cá đặc quyền. Tình trạng này đã tạo ra mối quan ngại và phản đối từ các quốc gia có biển lớn. Năm 1971, Kenya và sau đó là các nước Á-Phi đề nghị dung hòa hai lập trường trên: Trong vùng đặc quyền kinh tế, các quốc gia ven biển có “thẩm quyền đặc biệt để kiểm soát, điều tiết, khai thác và bảo vệ các nguồn tài nguyên sinh vật và phi sinh vật của khu vực và ngăn ngừa và chống ô nhiễm” trong khi các quyền tự do hàng hải, tự do hàng hải và hàng không, tự do hàng hải và đường ống.
Khái niệm về vùng đặc quyền kinh tế nhanh chóng được chấp nhận mà không có sự phản đối nào. Khái niệm này có giá trị tập quán trước khi được ghi nhận trong Công ước Luật biển 1982. Điều 15, Điều 16 Luật Biển Việt Nam năm 2012 quy định vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển tiếp liền và ở ngoài lãnh hải Việt Nam, hợp với lãnh hải tạo thành vùng biển có chiều rộng 200 hải lý. từ đường cơ sở. . Nhà nước Việt Nam có quyền chủ quyền đối với việc thăm dò, khai thác, quản lý và bảo tồn tài nguyên ở các vùng nước phía trên đáy biển, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển; về các hoạt động khác nhằm thăm dò, khai thác khu vực này vì mục đích kinh tế. Nhà nước Việt Nam có quyền tài phán đối với việc lắp đặt, sử dụng đảo nhân tạo, thiết bị và công trình trên biển; nghiên cứu khoa học biển, bảo vệ và gìn giữ môi trường biển.
2. Vùng đặc quyền kinh tế là khu vực nằm ngoài lãnh hải
Như vậy, theo quy định tại Điều 55 và 57 UNCLOS 1982 thì:
Vùng đặc quyền kinh tế là khu vực nằm ngoài lãnh hải và tiếp giáp với lãnh hải, chịu một chế độ pháp lý riêng, theo đó các quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển và các quyền tự do của các quốc gia khác, tất cả các quốc gia khác sẽ được điều chỉnh bởi các quy định thích hợp của Công ước... Vùng đặc quyền kinh tế có chiều rộng không quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Việc giải quyết trên đã làm rõ một số vấn đề như sau:
Thứ nhất, về vị trí, vùng đặc quyền kinh tế nằm bên ngoài lãnh thổ của quốc gia ven biển, tiếp liền với lãnh hải mà ranh giới phía trong là biên giới quốc gia trên biển, phía ngoài là đường mà mỗi điểm n không quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở.
Thứ hai, về chiều rộng, vùng đặc quyền kinh tế không mở rộng quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở.
Thứ ba, về vùng tiếp giáp lãnh hải, do vùng đặc quyền kinh tế và vùng tiếp giáp lãnh hải đều có biên giới bên trong là biên giới quốc gia trên biển nên chiều rộng của vùng đặc quyền kinh tế được xác định không quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở trong khi chiều rộng của vùng tiếp giáp lãnh hải không vượt quá 24 hải lý tính từ đường cơ sở nên về bản chất vùng đặc quyền kinh tế bao trùm cả vùng tiếp giáp lãnh hải. Nói cách khác, vùng tiếp giáp lãnh hải là một phần của vùng đặc quyền kinh tế. Điều này giải thích vì sao trong vùng tiếp giáp lãnh hải, quốc gia ven biển và các quốc gia khác hoàn toàn được hưởng lợi từ các quy định pháp lý mà UNCLOS 1982 quy định về vùng đặc quyền kinh tế. Thứ tư, chế độ pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế sẽ bao gồm cả các quyền của quốc gia ven biển và các quyền của các quốc gia khác được quy định trong Công ước. Đây chính là đặc điểm tạo nên sự khác biệt về chế độ pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế với các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia. Điều này xuất phát từ vị trí vùng biển này cũng như các vùng biển khác thuộc chủ quyền quốc gia, tuy nằm ngoài lãnh thổ của quốc gia ven biển nhưng lại không thuộc lãnh thổ quốc tế nên vừa là quyền của quốc gia ven biển, vừa là quyền của các quốc gia khác. quốc gia được công nhận ở đó.

vùng đặc quyền kinh tế cách xác định
3. Quy định về vùng đặc quyền kinh tế
Vùng đặc quyền kinh tế có chiều rộng không quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Như vậy, chiều rộng cụ thể của vùng đặc quyền kinh tế là 188 hải lý tính từ giới hạn phía ngoài của lãnh hải.
Vùng đặc quyền kinh tế lần đầu tiên được ghi nhận trong Công ước Luật Biển năm 1982. Đây là một thắng lợi cho cuộc đấu tranh của các nước mới giành độc lập và các nước đang phát triển. Vùng đặc quyền kinh tế không phải là lãnh hải vì nó nằm ngoài lãnh hải và cũng không phải là bộ phận của biển cả vì theo Điều 86 UNCLOS 1982, biển cả vượt quá giới hạn của nó.
Trong vùng đặc quyền kinh tế, quốc gia ven biển có quyền chủ quyền trong việc thăm dò, khai thác, bảo tồn và quản lý tài nguyên thiên nhiên biển ở các vùng nước phía trên đáy biển, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển và các hoạt động khác nhằm thăm dò, khai thác vùng biển này vì mục đích kinh tế. mục đích. Quốc gia ven biển có những quyền hạn nhất định để đảm bảo rằng các quyền chủ quyền của mình không bị xâm phạm.
Trong vùng đặc quyền kinh tế của một quốc gia ven biển, tất cả các quốc gia khác được hưởng quyền tự do hàng hải và hàng không...
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong tuyên bố ngày 12 tháng 5 năm 1977, xác lập vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam rộng 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Trong những vùng mà vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam chưa hết 200 hải lý và tiếp giáp với vùng đặc quyền kinh tế của các nước khác như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, v.v... thì ranh giới giữa vùng đặc quyền kinh tế giữa Việt Nam và các nước liên quan sẽ được xác định trên cơ sở thỏa thuận phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế.
Nội dung bài viết:
Bình luận