Chức năng của cơ quan nhà nước là những nhiệm vụ cụ thể mà cơ quan đó phải thực hiện, được quy định trong Hiến pháp, luật và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Cơ sở pháp lý để xác định nhiệm vụ của cơ quan nhà nước là chức năng của cơ quan đó.

Về nguyên tắc nếu chức năng không thay đổi thì nhiệm vụ không thay đổi mà có thể sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Điều này dẫn đến việc sửa đổi Hiến pháp lần này đối với các cơ quan công tố nhân dân.
Hiến pháp 2013 đã xác định:
Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức. nhãn, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, thống nhất” (khoản 3 Điều 107).
Nhiệm vụ, quyền hạn của viện kiểm sát nhân dân được quy định trong Hiến pháp, Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân. Căn cứ vào nội dung những văn bản nói trên, nhiệm vụ, quyền hạn của viện kiểm sát nhân dân được thể hiện trên các lĩnh vực sau:
1. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố
Theo quy định tại điều 12, Điều 13 Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 2014:
Khi thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền:
- Phê chuẩn, không phê chuẩn việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ và các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố;
- Huỷ bỏ quyết định tạm giữ, các quyết định tố tụng khác trái pháp luật của cơ quan có thẩm quyền;
- Đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố giác khi cần thiết...
Khi kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền:
- Tiếp nhận đầy đủ tố giác, tin báo về tội phạm và chuyển giao cơ quan điều tra có thẩm quyền giải quyết;
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Các cơ quan này có nhiệm vụ thông báo đầy đủ, kịp thời cho viện kiểm sát;
- Trực tiếp kiểm sát, kiểm sát việc điều tra của các cơ quan điều tra nói trên;
- Khi phát hiện vi phạm pháp luật thì yêu cầu cơ quari điều tra nói trên thực hiện các hoạt động như tiếp nhận, kiểm tra việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, cung cấp tài liệu về vi phạm pháp luật, khắc phục vi phạm pháp luật và xử lí người vi phạm;
- Giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm;
- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự... Hiến pháp 2013, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 đã bổ sung nhiệm vụ, quyền hạn của viện kiểm sát nhân dân trong lĩnh vực này. Điều này là hết sức cần thiết bởi nếu việc tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm, yêu cầu của tòa án được thực hiện đúng pháp luật thì sẽ không có vướng mắc về sau.
2. Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Theo điều 14, 15 luật tổ chức VKSND năm 2014, hoạt động điều tra vụ án hình sự là trách nhiệm của cơ quan điều tra (công an, quân đội), cơ quan tiến hành một số hoạt động điều tra (kiểm lâm, hải quan). , vân vân.). Các cơ quan này chịu sự kiểm soát của Viện kiểm sát nhân dân.
Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra án hình sự, viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền:
- Yêu cầu các cơ quan nói trên khởi tố hoặc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can;
- Huỷ bỏ quyết định khởi tố vụ án; phê chuẩn hoặc huỷ bỏ quyết định khởi tố bị can trái pháp luật;
- Khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong trường họp luật định...
Khi kiểm sát điều tra vụ án hình sự, viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền:
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố, điều tra và lập hồ sơ vụ án;
- Kiểm sát hoạt động tố tụng hình sự của người tham gia tố tụng;
- Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền điều tra...
3. Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn truy tố
Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố, viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền (Điều 16, Điều 17 Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 2014):
- Quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam, các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân theo quy định của luật; yêu cầu cơ quan điều tra truy nã bị can;
- Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra trong một số trường hợp;
- Quyết định khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong một số trường họp...
Khi kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn truy tố, viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền:
- Kiểm sát hoạt động tố tụng hình sự của người tham gia tố tụng; yêu cầu xử lí người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật;
- Kiến nghị việc áp dụng biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật...
4. Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự
Theo quy định tại Điều 18 và Điều 19 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 thì xét xử là chức năng riêng, độc quyền của Tòa án nhân dân. Nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, theo quy định của pháp luật, tòa án ra phán quyết cuối cùng để kết thúc vụ án. Các tòa án độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Pháp luật nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm. Tuy nhiên, để phán quyết của tòa án được nghiêm minh, kịp thời, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật thì rất cần một cơ chế giám sát hiệu quả. Nếu không sẽ dẫn đến lạm quyền, vi phạm quyền con người, quyền công dân. Tòa án hoạt động dưới sự giám sát của cơ quan quyền lực Nhà nước thông qua trách nhiệm báo cáo công tác của Chánh án Tòa án tối cao trong kỳ họp của Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ kiểm sát xét xử các vụ án hình sự của Toà án nhân dân.
Khi thực hành quyền công tố trong quá trình xét xử vụ án hình sự tại Toà án, Viện kiểm sát nhân dân có quyền:
- Công bố cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn hoặc quyết định khác về việc buộc tội bị cáo tại phiên tòa;
- Xét hỏi, luận tội, tranh luận và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa;
- Kháng nghị trong trường hợp phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội;
- Thực hiện chức năng, quyền hạn khác trong việc truy tố tội phạm theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Khi kiểm sát xét xử vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân có quyền:
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử các vụ án hình sự của Toà án;
- Kiểm sát bản án, quyết định của Toà án;
- Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án...
Khi xét xử vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân tham gia tố tụng và thực hành quyền công tố trước Toà án cùng cấp. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đọc cáo trạng, quyết định của Viện kiểm sát nhân dân về việc giải quyết vụ án và cáo trạng truy tố bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm. Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện cơ quan công tố phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án. Kiểm sát viên có quyền tranh luận với luật sư bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm. Với phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm, đại diện cơ quan công tố phát biểu về việc giải quyết vụ án. Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự, nếu xét thấy việc Toà án xét xử không đúng người, đúng tội, không đúng pháp luật thì Kiểm sát viên có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; cung cấp cho tòa án cùng cấp và cấp dưới để giải quyết các vi phạm trong quá trình xét xử. Nếu có dấu hiệu tội phạm thì truy cứu trách nhiệm hình sự.
Như vậy, mục đích của việc thực hành quyền công tố là nhằm đảm bảo việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội. Mục đích của việc khởi tố vụ án hình sự là nhằm đảm bảo cho việc xét xử được đúng pháp luật, nghiêm minh và nhanh chóng.
5. Công tác điều tra của cơ quan điều tra viện kiểm sát nhân dân
Theo pháp luật hiện hành (Điều 20, Điều 21 Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 2014), khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, viện kiểm sát nhân dân có quyền điều tra các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, các tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp theo quy định của luật. Trong cơ cấu tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự trung ương có cơ quan điều tra (gồm thủ trưởng, các phó thủ trưởng, các điều tra viên).
Thẩm quyền điều tra của cơ quan điều tra của viện kiểm sát: Điều tra các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp theo quy định của luật mà người pham tội là cán bộ, công chức thuộc cơ quan điều tra, toà án, viện kiểm sát, cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp.
Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan điều tra của viện kiểm sát: Viện kiểm sát nhân dân tối cao, viện kiểm sát quân sự trung ương thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; việc khởi tố, điều tra của cơ quan điều tra của viện kiểm sát theo quy định tại các điều 12, 13, 14, 15 Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 2014 và quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
6. Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự
Theo quy định của pháp luật hiện hành (Điều 22, 23, 25 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014), việc tạm giam trước khi xét xử thuộc nhiệm vụ của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng. . Người bị tạm giam, tạm giữ, thi hành án hình sự là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội cần ngăn chặn, cách ly khỏi cuộc sống bình thường. Tuy nhiên, để việc giam, giữ, thi hành án đúng pháp luật, giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội thì cần phải có một cơ quan chuyên trách giám sát mọi hoạt động của trại giam. nghĩa vụ này. Trong bộ máy nhà nước hiện nay, Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan có thẩm quyền, của người bị tạm giữ, tạm giam. Khi thực hiện nhiệm vụ này, Viện kiểm sát nhân dân có quyền:
- Kiểm sát trực tiếp tại nhà bảo vệ, trại tạm giam;
- Kiểm sát hồ sơ tạm giữ, tạm giam trước khi xét xử;
- Quyết định trả tự do ngay cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam trước khi xét xử không có căn cứ và trái pháp luật;
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tạm giữ, tạm giam trước khi xét xử...
Thi hành án hình sự là nhiệm vụ của Toà án, cơ quan có trách nhiệm thi hành án hình sự, cơ quan, tổ chức được giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự, người có thẩm quyền, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc thi hành án hình sự. bản án. Đây là đối tượng chịu sự quản lý của Viện kiểm sát nhân dân khu vực này.
Trong khuôn khổ kiểm sát việc thi hành các bản án mang tính đàn áp, viện kiểm sát nhân dân có quyền:
- Yêu cầu Toà án ra quyết định thi hành án hình sự, tự kiểm tra việc thi hành án hình sự và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát nhân dân;
- Trực tiếp theo dõi công tác thi hành án hình sự và hồ sơ thi hành án hình sự;
- Quyết định trả tự do ngay cho người chấp hành án phạt tù là không có căn cứ, trái pháp luật...
7. Kiểm sát việc giải quyết các công việc hành chính, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật; kiểm sát việc thi hành án dân sự, hành chính
Giải quyết các vụ án hành chính, dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh doanh, thương mại, lao động và các vụ án khác theo quy định của pháp luật trong khuôn khổ chức năng của Tòa án nhân dân. . Vì vậy, đối tượng kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân trong lĩnh vực này là hoạt động tài phán của Toà án nhân dân. Tuy nhiên, theo quy định pháp luật hiện hành, để giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại và lao động, ngoài tòa án nhân dân, còn có một tổ chức được pháp luật chỉ định có thẩm quyền, đó là tổ chức trọng tài thương mại (tổ chức phi chính phủ). Hoạt động của tổ chức này không chịu sự kiểm soát của Viện kiểm sát nhân dân. Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng của mình nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ án đúng pháp luật, nhanh chóng, minh bạch (Điều 27, 28 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014).
Đê thực hiện chức năng, nhiệm vụ nêu trên, pháp luật quy định viện kiểm sát nhân dân có những quyền hạn sau:
- Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu;
- Kiểm sát việc thụ lí, giải quyết vụ án, vụ việc;
- Thu thập tài liệu, chứng cứ trong trường hợp pháp luật quy định...
Khi kiểm sát việc thi hành án dân sự, thi hành án hành chính, viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền:
- Kiểm sát việc cấp, chuyển giao, giải thích, đính chính bản án, quyết định của toà án;
- Trực tiếp kiểm sát việc thi hành án của cơ quan thi hành án, chấp hành viên, tổ chức, cá nhân có liên quan;
- Kiểm sát hồ sơ về thi hành án...
8. Giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp
Những khiếu nại trong lĩnh vực tư pháp thuộc thẩm quyền giải quyết của viện kiểm sát nhân dân (Điều 29, Điều 30 Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 2014) gồm:
- Khiếu nại hành vi, quyết định tố tụng của người có thẩm quyền của viện kiểm sát trong việc thực hiện chức năng của viện kiểm sát;
- Khiếu nại hành vi, quyết định tố tụng của thủ trưởng cơ quan điều tra;
- Khiếu nại trong hoạt động tạm giữ, tạm giam...
Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền giải quyết các tố cáo sau:
- Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của người có thẩm quyền của viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp;
- Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động của người có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra;
- Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của người có thẩm quyền trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam;
- Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của người được giao quản lý, giáo dục phạm nhân;
- Tố cáo khác theo quy định của pháp luật. Trong khuôn khổ kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân có quyền:
- Trực tiếp kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp với cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật;
- Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền ra quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận nội dung tố cáo;
- Đưa ra kết luận thanh tra, thực hiện quyền kiến nghị, kiến nghị theo quy định của pháp luật.
9. Thực hiện quyền theo đuổi, giám sát hoạt động tương trợ tư pháp
Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, việc tương trợ tư pháp là cần thiết. Năm 2007, Quốc hội ban hành Luật tương trợ tư pháp quy định nguyên tắc, thẩm quyền, trình tự, thủ tục tương trợ tư pháp về dân sự, hình sự, dẫn độ, chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù giữa Việt Nam và nước ngoài; trách nhiệm của các cơ quan nhà nước Việt Nam trong tương trợ tư pháp.
Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tương trợ tư pháp là nội dung mới của Điều 32, 33 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, thể hiện chính sách đối ngoại của Việt Nam trong lĩnh vực tư pháp. Khi thực hành công lý trong hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự, Viện kiểm sát nhân dân có quyền:
- Quyết định chuyển yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự của nước ngoài cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền của Việt Nam để khởi tố, điều tra;
- Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài triệu tập người làm chứng, người giám định; thu thập, cung cấp chứng cứ, tài liệu; khởi tố người phạm tội...
Là một phần của việc giám sát các hoạt động tương trợ tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân có quyền:
- Theo dõi việc tuân theo pháp luật của cơ quan, người thực hiện và người tham gia hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự, dân sự, dẫn độ, chuyển giao người bị kết án phạt tù;
-Tham gia phiên tòa về việc dẫn độ, chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù và phát biểu quan điểm của cơ quan công tố.
10. Công tác thống kê hình sự và công tác khác
- Thống kê tội phạm là công việc cần thiết giúp nhà nước nắm bắt, đánh giá cụ thể, chính xác tình hình tội phạm xảy ra trong cả nước, ở mọi địa phương, mọi lĩnh vực, từ đó có biện pháp xử lý, khắc phục và hoàn thiện pháp luật. Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm chủ trì công tác thống kê tội phạm và phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền xây dựng thống kê tội phạm. - Nghiên cứu khoa học tội phạm học và kiểm sát, góp phần thực hiện chức năng, nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật.
- Trình dự luật hoặc dự thảo pháp lệnh; chủ trì, phối hợp xây dựng pháp luật, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
- Đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ để tạo nguồn nhân lực và nâng cao trình độ cho Kiểm sát viên, Kiểm sát viên...
- Thực hiện hợp tác quốc tế về đào tạo, khách sạn và nghiên cứu khoa học; đàm phán, ký kết và thực hiện các điều ước quốc tế hợp pháp theo quy định.
- Thông qua việc thực hiện chức năng của mình, Viện kiểm sát có trách nhiệm phổ biến, giáo dục pháp luật, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật.
Nội dung bài viết:
Bình luận