Vị trí chức năng của chủ tịch nước là gì?

Tổng thống là nguyên thủ quốc gia, đại diện cho nhà nước trong quan hệ đối nội và đối ngoại. Tổng thống còn được gọi là nguyên thủ quốc gia. Bài viết phân tích các quy định của luật hiến pháp liên quan đến chức danh chủ tịch nước, cụ thể: 

vị trí chức năng của chủ tịch nước
vị trí chức năng của chủ tịch nước

 1. Tìm hiểu các quy định về nguyên thủ quốc gia 

 Ở các nước tư bản, người đứng đầu nhà nước (nguyên thủ quốc gia) thường là tổng thống, vua hoặc hoàng hậu (trong trường hợp quân chủ lập hiến). Trong các nhà nước  phong kiến ​​và chiếm hữu nô lệ, người đứng đầu nhà nước thường là vua hoặc hoàng đế.  Ở Việt Nam, chế độ tổng thống lần đầu tiên xuất hiện trong Hiến pháp năm 1946. Khi đó, chủ tịch nước vừa là nguyên thủ quốc gia, vừa là người đứng đầu chính phủ. Theo Hiến pháp  1992, Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia, đại diện cho nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. 

  Chủ tịch nước do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Ủy ban thường vụ Quốc hội trong số  đại biểu Quốc hội. Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước tuân theo nhiệm kỳ của Quốc hội (5 năm). Khi  hết nhiệm kỳ của Quốc hội, Chủ tịch nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khóa mới bầu ra Chủ tịch nước mới. Chủ tịch nước phải đảm nhận trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. 

  Phó Chủ tịch nước giúp Chủ tịch nước thi hành nhiệm vụ và có thể được Chủ tịch nước ủy quyền thực hiện một số nhiệm vụ. Khi chủ tịch  không thể làm việc  trong một thời gian dài, phó chủ tịch thay thế chủ tịch. Trong trường hợp khuyết Chủ tịch nước thì Phó Chủ tịch nước làm quyền Chủ tịch nước cho đến khi Quốc hội bầu ra Chủ tịch nước mới.  

 Theo Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi năm 2001, Chủ tịch nước có các nhiệm vụ quyền hạn sau đây: 

 

 1) Công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh; 

 

 2) Thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh; 

 

 3) Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; 

 

 4) Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; 

 

 5) Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, công bố quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh, công bố quyết định đại xá; 

 

 6) Căn cứ vào nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố tình trạng khẩn cấp; trong trường hợp Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể họp được, ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc trong địa phương; 

 

 7) Đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh trong thời hạn mười ngày kể từ ngày pháp lệnh được thông qua; nếu pháp lệnh đó vẫn được Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kì họp gần nhất; 

 

 8) Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án, Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân nhân tối cao; 

 

 9) Quyết định phong hàm, cấp sĩ quan cấp cao trong lực lượng vũ trang nhân dân; hàm, cấp đại sứ, những hàm, cấp nhà nước trong các lĩnh vực khác; quyết định tặng thưởng huân chương, huy chương, giải thưởng nhà nước và danh hiệu vinh dự nhà nước; 

 

 10) Cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam; tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài; tiến hành đàm phán, kí kết điểu ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với người đứng đầu nhà nước khác; trình Quốc hội phê chuẩn điều ước quốc tế, trừ trường hợp cần trình Quốc hội quyết định; 

 

 11) Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam, cho thôi quốc tịch Việt Nam hoặc tước quốc tịch Việt Nam; 

 

 12) Quyết định đặc xá. 

  Để thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình, Chủ tịch nước có quyền ban hành lệnh và ra quyết định nhưng phải phù hợp với hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.  

 

 

 2. Sự ra đời và phát triển của chế định nguyên thủ quốc gia 

 Trong bộ máy nhà nước có một thiết chế với những tên gọi khác nhau như: Vua, Hoàng đế, Quốc vương, Quốc trưởng, Nữ hoàng, Tổng thống, Đoàn chủ tịch, Hội đồng nhà nước, Chủ tịch nước..., thiết chế này còn được gọi là nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu nhà nước, đại diện cho nước về đối nội và đối ngoại. Vua, Hoàng đế, Quốc vương, Quốc trưởng, Nữ hoàng là nguyên thủ quốc gia ở các nước theo chính thể quân chủ hoặc quân chủ lập hiến. Tổng thống là nguyên thủ quốc gia ở các quốc gia theo chế độ cộng hòa tổng thống hoặc cộng hòa nghị viện. Đoàn Chủ tịch, Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia ở các nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa. Theo hiến pháp hiện hành, người đứng đầu nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là chủ tịch nước.  

 Trong lịch sử lập hiến của nhà nước tư sản, việc hình thành nguyên thủ quốc gia ở mỗi nước có quá trình và tính chất khác nhau, nhưng  điểm chung là đều xuất phát từ các cuộc cách mạng tư sản, với chủ trương đánh đổ chế độ chuyên chế, xây dựng  chế độ nhà nước tư sản. một nền dân chủ tư sản. Ở những nước  cách mạng tư sản đã giành được thắng lợi hoàn toàn, xóa bỏ chế độ cha truyền con nối, chế độ quân chủ được thay thế bằng chính thể cộng hòa. Ở những quốc gia này, nguyên thủ quốc gia không còn là  vua mà  là một tổng thống được  bầu chọn. Các nước cách mạng tư sản không đủ mạnh để đánh bại  giai cấp phong kiến ​​mà đại diện là các  Hoàng đế, tuy lạc hậu nhưng vẫn  đủ mạnh, nơi mà quyền lực nhà nước buộc phải được chia sẻ giữa giai cấp tư sản thống trị và giai cấp phong kiến. Các nước này xây dựng chế độ quân chủ lập hiến, quyền lực nhà nước chủ yếu thuộc về quốc hội, quyền lực của nhà vua bị giới hạn bởi hiến pháp. Tuy nhiên, cũng có  nơi sự tồn tại của chế độ quân chủ đã ăn sâu vào tiềm thức của mọi thành viên trong xã hội, mặc dù  cách mạng tư sản đã giành thắng lợi hoàn toàn nhưng giai cấp tư sản vẫn không xóa bỏ ngai vàng phong kiến ​​mà tiếp tục duy trì chế độ quân chủ. . , nhằm lợi dụng địa vị  của nhà vua để phục vụ  mục đích chính trị của mình. Hình thức chính phủ ở các nước này là quân chủ lập hiến, vua trị vì nhưng không cầm quyền, quyền lực của vua chỉ là hình thức và bị giới hạn bởi hiến pháp.  Đối với nhà nước xã hội chủ nghĩa, bộ máy nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tập trung, mọi quyền lực nhà nước thống nhất ở cơ quan trung ương đại diện cho quyền lực nhân dân cao nhất của nhà nước, đó là Xô viết tối cao, Nghị viện. Xô viết tối cao bầu ra Đoàn chủ tịch Xô viết tối cao (Liên Xô), Quốc hội bầu ra Hội đồng Nhà nước (các nước Đông Âu cũ, Việt Nam theo Hiến pháp  1980), các nước này có các chức năng sau: Nguyên thủ quốc gia  thống nhất ở chức năng của Đoàn chủ tịch Xô viết tối cao và Hội đồng Nhà nước. Do đó, Đoàn chủ tịch Xô viết tối cao, Hội đồng Nhà nước, được coi là nguyên thủ quốc gia tập thể. Một số nước xã hội chủ nghĩa khác, vì nhiều lý do, trong đó có  truyền thống lịch sử của nước này, đã có hệ thống chủ tịch nước trong bộ máy nhà nước, chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia. Nguyên thủ quốc gia  thay mặt quốc gia thực hiện các chức năng đối nội. và các chức năng bên ngoài. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.  

3. Vị trí pháp lý của Nguyên thủ quốc gia trong  chính sách 

 Thể chế Nguyên thủ quốc gia ở tất cả các quốc gia đều được ghi nhận trong văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất là Hiến pháp. Hiến pháp thành văn hay bất thành văn thường dành một chương hoặc một đạo luật quy định  trình tự bầu cử, thẩm quyền,  mối quan hệ của nguyên thủ quốc gia với các cơ quan, nhiệm vụ, quyền hạn của nhà nước. Vị trí, vai trò của nguyên thủ quốc gia ở mỗi quốc gia có những quy định khác nhau, phụ thuộc vào nhiều yếu tố như hệ thống chính trị, truyền thống dân tộc… Chính phủ là nhân tố có ảnh hưởng quyết định đến vị trí pháp lý của nguyên thủ quốc gia . 

 Trong chế độ quân chủ lập hiến, chức năng của  Vua, Hoàng hậu và Quốc vương chỉ mang tính tượng trưng, ​​mọi hoạt động của  Vua, Hoàng hậu và Quốc vương chỉ nhằm  chính thức hóa  các hoạt động của Nhà nước và quá khứ hành động của Nghị viện và Chính phủ. Lệnh của Vua, Nữ hoàng và Vua phải được ký bởi một bộ trưởng của "phó" điền trang đó để có hiệu lực. Các Bộ trưởng  chịu trách nhiệm trước Nghị viện về những sắc lệnh do mình ký trái với Hiến pháp và pháp luật. Việc nhà vua, hoàng hậu và quốc vương yêu cầu họ ký sắc lệnh này không được coi là lý do chính đáng. Do đó, trong một chế độ quân chủ lập hiến, vua, hoàng hậu và vương phi không phải chịu trách nhiệm về bất cứ điều gì ngoại trừ tội phản quốc. Ví dụ, điều 63 của Hiến pháp Bỉ năm 1831 quy định: 

 

 "Vương gia không  chịu trách nhiệm, đại thần sẽ  chịu trách nhiệm." Điều 64 quy định: 

 

 "Không có luật nào của Grass King có hiệu lực, ngoại trừ những con khỉ được ký bởi một thứ trưởng. Và với hành động ký thứ trưởng này, bộ trưởng sẽ  chịu trách nhiệm về vấn đề tương ứng. 

 Ở các nước theo chế độ cộng hòa tổng thống (như Mỹ, Mexico,…) có một đặc điểm là tổng thống do nhân dân bầu trực tiếp hoặc gián tiếp, vừa là nguyên thủ quốc gia, vừa là người đứng đầu bộ máy hành pháp. . Điều 80 của Hiến pháp Mexico năm 1917 quy định: “Việc thực thi các quyền  hành pháp tối cao của Liên bang được giao cho một người duy nhất, người được gọi là: 

 

 "Tổng thống  Liên bang Mexico"', 

 

 Điều 81 quy định: 

 

 “Tổng thống được bầu  trực tiếp theo  quy định của luật bầu cử”.  

 Tổng thống thành lập nội các, bổ nhiệm các thành viên nội các, nội các chịu trách nhiệm trước tổng thống. Chính chức năng của người đứng đầu bộ máy hành pháp đã làm cho tổng thống - nguyên thủ quốc gia có quyền lực rất lớn, trong trường hợp tổng thống và đa số nghị sĩ đều trong cùng một đảng cầm quyền thì quyền lực nhà nước tập trung tuyệt đối vào tay tổng thống. tay tổng thống. 

 Các quốc gia theo hệ thống cộng hòa  nghị viện (còn gọi là cộng hòa nghị viện) Tổng thống được  thành lập bằng bầu cử của quốc hội. Tổng thống không phải là người đứng đầu chính phủ, thủ tướng là người đứng đầu chính phủ. Thủ tướng không chịu trách nhiệm trước Tổng thống mà chỉ chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Chức vụ tổng thống ở các nước  cộng hòa nghị viện, cũng  như ở các chế độ quân chủ lập hiến, không do nguyên thủ quốc gia nắm giữ. Ở các nước theo  thể chế lưỡng tính vừa mang đặc điểm của cộng hòa tổng thống vừa có đặc điểm  cộng hòa đại nghị, tổng thống được bầu theo  phổ thông đầu phiếu trực tiếp. Tổng thống là nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu nhà nước,  là người có ảnh hưởng trực tiếp đến bộ máy hành pháp. Cộng hòa Pháp là một ví dụ về  thể chế cộng hòa lưỡng tính, trong đó Hiến pháp Pháp 1958  quy định hệ thống chính trị là  hình mẫu của sự kết hợp giữa  cộng hòa tổng thống và  cộng hòa nghị viện. Tổng thống được bầu với nhiệm kỳ 5 năm bằng phổ thông đầu phiếu trực tiếp (Điều 6). Với tư cách là nguyên thủ quốc gia, tổng thống bổ nhiệm và miễn nhiệm thủ tướng. Theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các thành viên khác của Chính phủ (Điều 8). Tổng thống chủ trì các cuộc họp của Hội đồng Bộ trưởng (Điều 9). Chính phủ Pháp chịu trách nhiệm trước Nghị viện chứ không phải trước Tổng thống. Thủ tướng chỉ đạo hoạt động của Chính phủ và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc do Chủ tịch nước quyết định. Khi thủ tướng và nội các yếu kém trong việc thực hiện các chính sách quốc gia, Quốc hội Pháp  chất vấn và bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với chính phủ. 

 4. Vị trí pháp lý của nguyên thủ quốc gia ở các nước xã hội chủ nghĩa 

 Trong chính sách nhà nước của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa, bộ máy nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước tập trung thống nhất vào cơ quan đại diện của quyền lực nhà nước là Xô viết tối cao ở Liên Xô (trước đây) và Quốc hội ở Liên Xô. các nước còn lại. Xô viết tối cao Liên Xô bầu Đoàn chủ tịch Xô viết tối cao Liên Xô - cơ quan thường trực của Xô viết tối cao Liên Xô và Chủ tịch tập thể của Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết. Thành phần Đoàn chủ tịch Xô viết tối cao Liên Xô bao gồm Chủ tịch Đoàn chủ tịch Xô viết tối cao Liên bang Xô viết, một phó chủ tịch thứ nhất, mười lăm phó chủ tịch - mỗi nước Cộng hòa Liên bang có một phó chủ tịch. . Ở các nước khác, Quốc hội bầu ra Hội đồng Nhà nước, cơ quan tối cao điều hành thường xuyên của Quốc hội, và là chủ tịch tập thể của mỗi nước. Hội đồng Nhà nước gồm có Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, các Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước và các thành viên. Như vậy, ở các nước XHCN thuộc Liên Xô cũ, Đông Âu, Cuba và  Việt Nam (theo Hiến pháp  1980), Hiến pháp không quy định thiết chế Nguyên thủ quốc gia với tư cách cá nhân. Xô viết tối cao, tức Quốc hội, nắm giữ mọi quyền lực của nhà nước, kể cả quyền "nguyên thủ quốc gia". Tất cả các chức năng của Nguyên thủ quốc gia được thực hiện bởi Đoàn chủ tịch Xô viết tối cao, Hội đồng Nhà nước. Việc giao chức vụ nguyên thủ quốc gia cho Đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao, Hội đồng Nhà nước, thể hiện hướng tư tưởng tập thể  trong  tổ chức nhà nước xã hội chủ nghĩa. Vai trò người đứng đầu tập thể của Đoàn Chủ tịch Xô viết tối cao và Hội đồng Nhà nước ở các nước xã hội chủ nghĩa có thể coi là một nét đặc thù so với các chế độ chính trị của các  nước dân chủ khác. 

 Ở các nước xã hội chủ nghĩa như Trung Quốc, Việt Nam và CHDCND Triều Tiên, Hiến pháp quy định  nguyên thủ quốc gia  là chủ tịch nước, nhưng luôn trong bối cảnh tổ chức quyền lực nhà nước  tập trung. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu  và báo cáo công tác trước Quốc hội. Tổng thống là nguyên thủ quốc gia, đại diện cho đất nước trong các vấn đề đối nội và đối ngoại. Chủ tịch nước trình Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao  báo cáo  Chủ tịch nước về công tác. 

 

 

 5. Vị trí, vai trò của chế độ chủ tịch nước qua các bản hiến pháp  Việt Nam 

 Trong bộ máy nhà nước ta,  chế định Chủ tịch nước được tổ chức khác nhau qua các bản hiến pháp. Hiến pháp  1946 và Hiến pháp  1959 quy định  Chủ tịch nước, Hiến pháp  1980 quy định  Hội đồng Nhà nước - Chủ tịch nước tập thể, Hiến pháp  1992 và  2013  quy định  Chủ tịch nước. Thể chế Chủ tịch nước tuy được quy định khác nhau ở mỗi giai đoạn phát triển của tổ chức nhà nước nhưng đều khẳng định: Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia, đại diện cho nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Theo  Hiến pháp, chức vụ Nguyên thủ quốc gia bắt nguồn từ Quốc hội,  được thể hiện trong các  hiến pháp như sau: 

 

 

 

 5.1 Chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp  1946 

 Cách mạng Tháng Tám  giành lại chủ quyền của Tổ quốc, tự do của nhân dân, đánh đổ chế độ thuộc địa nửa phong kiến, xây dựng nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bộ máy nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tập trung, nhưng vẫn mang nhiều dấu ấn của hình thức chính thể cộng hòa nghị viện. Nghị viện nhân dân là cơ quan  quyền lực  nhất nước, chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất trong cả nước, do Nghị viện nhân dân thành lập nhưng có vị trí độc lập  với Nghị viện. Chính phủ gồm tổng thống, phó tổng thống và nội các. Nội các bao gồm Thủ tướng, các Bộ trưởng, Thứ trưởng, có thể có Phó Thủ tướng.  Chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 1946 do Quốc hội bầu  trong số các nghị viện nhân dân với nhiệm kỳ 5 năm. Chủ tịch nước là thành viên của Chính phủ. Tổng thống có  quyền: chọn Thủ tướng từ Nghị viện Nhân dân và đưa ông này ra bỏ phiếu trong Nghị viện, sau đó bổ nhiệm Thủ tướng; chủ tọa các phiên họp của Hội đồng Chính phủ; nắm quyền  chỉ huy toàn bộ quân đội của đất nước, bổ nhiệm hoặc cách chức các tướng lĩnh lục quân, hải quân và không quân; đề nghị Quốc hội thảo luận lại các luật đã được Quốc hội biểu quyết trước khi Chủ tịch nước ban hành, các luật đang thảo luận  nếu vẫn được Nghị viện thông qua thì  buộc Chủ tịch nước phải ban hành. 

 Chức vụ của chủ tịch nước trong Hiến pháp  1946 là nguyên thủ quốc gia, nguyên thủ quốc gia, đứng đầu cơ quan hành pháp, quyết định nhân sự Nội các và các chính sách điều hành  quốc gia. Thiết chế chủ tịch nước trong Hiến pháp  1946 mang nhiều đặc điểm của chế độ tổng thống trong chế độ cộng hòa lưỡng tính, trong đó nguyên thủ quốc gia vừa là nguyên thủ quốc gia, vừa là người đứng đầu cơ quan hành pháp. Việc thực hiện chính sách hành pháp quốc gia được giao cho Thủ tướng và Nội các thực hiện và chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Nghị viện có  quyền bỏ phiếu mất tín nhiệm Nội các, trong trường hợp Nội các mất tín nhiệm thì phải từ chức. Tổng thống do Nghị viện bầu ra nhưng giữ vị trí hoàn toàn độc lập với Nghị viện, không chịu trách nhiệm trước Nghị viện và thậm chí  có quyền kiểm soát các đạo luật từ Nghị viện thông qua quyền phủ quyết các luật hoặc sau khi được Nghị viện thông qua. trong số các Hạ nghị sĩ bỏ phiếu chống lại Nội các, Tổng thống có quyền đệ trình vấn đề này lên Nghị viện để xem xét thêm. Nhiệm kỳ của Nghị viện và Tổng thống không trùng nhau, nhiệm kỳ của Nghị viện là 3 năm nhưng nhiệm kỳ của Tổng thống là 5 năm. Đặc điểm của thiết chế  Chủ tịch nước trong Hiến pháp  1946 cho thấy những người xây dựng Hiến pháp 1946 đã khẳng định một nguyên tắc hiến định: “Dựng ra một chính quyền mạnh  và sáng suốt của nhân dân để lãnh đạo Nhà nước  mới được xây dựng. tất cả mọi người để chống lại kẻ thù bên trong và bên ngoài. 

 5.2  Chủ tịch nước trong Hiến pháp  1959 

 Theo Hiến pháp  1959, bộ máy nhà nước chuyển sang chế độ xã hội chủ nghĩa, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Thiết chế chủ tịch nước được quy định là thiết chế  độc lập có tính chất  nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu nhà nước. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu  theo nhiệm kỳ của Quốc hội và có thể bị Quốc hội bãi nhiệm. Quyền hạn của tổng thống chủ yếu là đại diện  cho các hoạt động đối nội và đối ngoại của nhà nước. Tuy nhiên, tổng thống vẫn có một số vai trò  đối với quyền hành pháp và nắm quyền điều phối hoạt động của các cơ quan nhà nước. Chủ tịch nước không đứng đầu chính phủ như quy định của Hiến pháp  1946, nhưng theo Điều 66 của Hiến pháp 1959, “Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nếu xét thấy cần thiết, có quyền  dự và chủ toạ các phiên họp của Hội đồng  Điều 67 của chính phủ quy định: “Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nếu xét thấy cần thiết, triệu tập và chủ trì hội nghị chính trị đặc biệt... Thông báo về hội nghị chính trị đặc biệt do Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa truyền trước Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng Chính phủ hoặc  cơ quan khác có liên quan để thảo luận và  quyết định". Có thể nói, chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp  1959 tuy được quy định là một thể chế riêng,  vẫn gắn chặt với  hành pháp và giữ vai trò điều phối hoạt động của các cơ quan nhà nước. 

 

 

  5.3 Thể chế Hội ​​đồng Nhà nước trong Hiến pháp  1980 

 Hiến pháp năm 1980 không quy định  chế độ chủ tịch nước riêng  mà xác lập chế độ chủ tịch nước tập thể là Hội đồng Nhà nước, theo  mô hình của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô và Đông Âu lúc bấy giờ. Thiết chế Hội ​​đồng Nhà nước trong Hiến pháp  1980 là sự hợp nhất giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội và  Chủ tịch nước trong Hiến pháp  1959. Vì vậy, “Hội đồng Nhà nước là cơ quan tối cao của Quốc hội, hoạt động thường xuyên, là chủ tịch tập thể của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Hội đồng Nhà nước, thông qua Chủ tịch, đại diện cho nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Hội đồng Nhà nước được bầu  trong số các đại biểu của Quốc hội và có trách nhiệm báo cáo công tác của mình trước Quốc hội. Hội đồng Nhà nước có quyền giám sát công việc của Hội đồng Bộ trưởng, Toà án nhân dân tối cao và  Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; đình chỉ việc thi hành và sửa đổi, bãi bỏ  nghị quyết, nghị định, quyết định của Hội đồng Bộ trưởng trái với Hiến pháp, luật, pháp lệnh; bổ nhiệm, miễn nhiệm Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân  Tòa án nhân dân tối cao; bổ nhiệm, miễn nhiệm các Phó Kiểm sát viên, Kiểm sát viên  Viện kiểm sát nhân dân tối cao... Như vậy, thiết chế  Hội ​​đồng Nhà nước - Chủ tịch nước tập thể là biểu hiện rõ nét nhất của mô hình chính thể cộng hòa. Chủ nghĩa xã hội, trong đó tập quyền trung ương và tập thể chỉ đạo là  nguyên tắc cơ bản trong  tổ chức quyền lực nhà nước.  

5.4 Thể chế Chủ tịch nước trong Hiến pháp  1992 

 Trong Hiến pháp  1992, chế độ chủ tịch nước được khôi phục với tư cách là một cơ quan riêng biệt như Hiến pháp  1959, nhưng kế thừa những ưu điểm của  chế độ chủ tịch nước được quy định trong Hiến pháp 1946. Hiến pháp  1959 và sự ra đời của Hội đồng Nhà nước 1980 Hiến pháp  Theo mô hình này, sự gắn kết giữa Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước được xác lập trong việc thực hiện chức năng nguyên thủ quốc gia. Đồng thời luôn bảo đảm  sự phân công, phối hợp giữa các cơ cấu của Bộ. 

 

 1 Điều 98 Hiến pháp  1980. Bộ máy nhà nước chịu trách nhiệm thực hiện quyền lực nhà nước trong thời kỳ đổi mới. Theo đó, Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia, đại diện cho nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng Chính phủ; căn cứ  nghị quyết của Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; tham dự các cuộc họp của chính phủ nếu cần thiết. Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh mà Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã thông qua. Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Phó Kiểm sát viên, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao. 

 

 

  5.5 Chế độ Chủ tịch nước trong Hiến pháp  2013 

 Vị trí, vai trò của  Chủ tịch nước trong Hiến pháp  2013  tiếp tục kế thừa các quy định về  chế định Chủ tịch nước của các bản hiến pháp trước, đặc biệt là Hiến pháp  1992. Thiết chế Chủ tịch nước được quy định là thiết chế độc lập, không nằm trong bất kỳ bộ phận nào trong ba bộ phận quyền lực nhà nước: Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp. Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia, đại diện cho nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Như vậy, Hiến pháp  2013 quy định điều kiện  bầu Chủ tịch nước phải là đại biểu Quốc hội, không quy định điều kiện về quốc tịch, xuất thân, độ tuổi tối thiểu của ứng cử viên “nguyên thủ quốc gia” như sau: ở một số nước xung quanh thế giới. 

  Ví dụ, đối với chức danh Tổng thống Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Tổng thống Singapore phải từ 45 tuổi trở lên; Tổng thống Cộng hòa Liên bang Đức  40 tuổi; Tổng thống Hoa Kỳ, Ấn Độ là 35... Nhiệm vụ của Chủ tịch nước tuân theo nhiệm vụ của Quốc hội. Chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp  2013  quy định rõ hơn về mối quan hệ phối hợp giữa ba nhánh quyền  lập pháp, hành pháp và tư pháp. Chủ tịch nước có quyền đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; căn cứ  nghị quyết của Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán các Tòa án khác, Phó Kiểm sát viên, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao; ban hành Hiến pháp, luật, pháp lệnh. Chủ tịch nước thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân, giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh...

 

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo