Thực tiễn là quan điểm cơ bản và quan trọng nhất trong Triết học Mác - Lênin, đặc biệt là vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, Vậy Vì sao nói thực tiễn là cơ sở của nhận thức? Hãy theo dõi bài viết dưới đây của Luật ACC để biết câu trả lời

1. Thực tiễn là gì?
“Thực tiễn” một cụm từ mang ý nghĩa trừu tượng và hầu như được ít người hiểu hết về khái niệm này. Thực tiễn được xem là một trong những phạm trù nền tảng và cơ bản của triết học Mác- Lênin nói chúng và lý luận nhận thức Mácxít nói riêng.
Chủ nghĩa duy tâm hiểu thực tiễn là hoạt động tinh thần sáng tạo ra thế giới của con người, chứ không xem nó là hoạt động vật chất, là hoạt động lịch sử xã hội.
Chủ nghĩa duy vật trước Mác lại xem thực tiễn là một hành động vật chất của con người nhưng lại xem đó là hoạt động con buôn, đê tiện, bẩn thỉu; không có vai trò đối với nhận thức của con người.
Kế thừa những yếu tố hợp lý và phát triển hơn những yếu tố sai lầm trong những quan niệm về thực tiễn của các nhà triết học trước đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã sáng tạo để đưa ra quan niệm đúng đắn, khoa học hơn về thực tiễn như sau:
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.
Thực tiễn biểu hiện đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phong phú, tuy nhiên có ba hình thức cơ bản ta cần hiểu rõ: là hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học. Cụ thể như sau:
- Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn. Đây chính là hoạt động mà trong đó con người sử dụng những công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra của cải và các điều kiện thiết yếu nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của mình và xã hội. Ví dụ: Hoạt động cấy lúa của người nông dân
- Hoạt động chính trị xã hội là hoạt động của các tổ chức cộng đồng người khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những mối quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển. Ví dụ: Hoạt động bầu cử Đại biểu Quốc hội.
- Thực nghiệm khoa học là một hình thức đặc biệt của thực tiễn. Đây là hoạt động được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra gần giống, giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định các quy luật biến đổi và phát triển của đối tượng nghiên cứu. Dạng hoạt động thực tiễn này ngày càng có vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội, đặc biệt là trong thời kỳ cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Ví dụ: Hoạt động nghiên cứu vắc xin COVID- 19.
Mỗi hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn có một chức năng quan trọng khác nhau, không thể thay thế được cho nhau song giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Từ đó, giúp thực tiễn vận động, phát triển không ngừng và ngày càng có vai trò quan trọng đối với nhận thức.
2. Vì sao nói thực tiễn là cơ sở của nhận thức?
Thực tiễn và nhận thức không ngừng phát triển trong sự tác động lẫn nhau, trong đó thực tiễn đóng vai trò là cơ sở, nguồn gốc, động lực, mục đích của nhận thức và là cơ sở của chân lý
Thông qua hoạt động thực tiễn, con người nhận biết được cấu trúc, tính chất và các mối quan hệ giữa các đối tượng để hình thành tri thức về đối tượng. Hoạt động thực tiễn bổ sung và điều chỉnh những tri thức đã được khái quát. Thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuya hường vận động và phát triển của nhận thức. Chính nhu cầu giải thích, nhận thức và cải tạo thế giới buộc con người tác động trực tiếp vào đối tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình.
Thực tiễn là điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức. Do đó, có thể hiểu rằng thực tiễn là tiền đề phát sinh nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng vận động và phát triển của nhận thức. Các nhu cầu tất yếu khách quan của con người là giải thích và cải tạo thế giới buộc con người phải tác động trực tiếp vào các sự vật, hiện tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Từ quá trình này đã làm cho sự vật, hiện tượng bộc lộ những thuộc tính, các mối liên hệ và quan hệ khác nhau giữa chúng, đem lại tài liệu cho nhận thức, giúp nhận thức mắn bắt được bản chất, các quy luật vận động và phát triển của thế giới. Trên cơ sở đó mà hình thành nên các lý thuyết khoa học.
Thực tiễn là cơ sở của nhận thức còn bởi vì nhờ có hoạt động thực tiễn mà các giác quan của con người càng ngày hoàn thiện hơn; năng lực tư duy logic không ngừng được hoàn thiện và phát triển; các phương tiện nhận thức càng ngày hiện đại, có tác dụng "nối dài" các giác quan của con người trong việc nhận thức thế giới.
Thực tiễn không chỉ là điểm xuất phát của nhận thức, là yếu tố đóng vai trò quyết định đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức mà còn là nơi nhận thức phải luôn luôn hướng tới để thể nghiệm tính đúng đắn của mình. Nhấn mạnh vai trò đó của thực tiễn, V.I.Lênin đã viết: "Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức".
Nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đo sâu vào thực tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn. Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, song song với hành động. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng, kinh nghiệm chủ nghĩa.
– Con người muốn tồn tại thì phải lao động sản xuất để tạo ra những sản phẩm phục vụ cho con người, muốn lao động sản xuất con người phải tìm hiểu thế giới xung quanh. Vậy, hoạt động thực tiễn tạo ra động lực đầu tiên để con người nhận thức thế giới.
– Trong hoạt động thực tiễn , con người dùng các song cụ, các phương tiện để tác động vào thế giới, làm thế giới bộc lộ những đặc điểm, thuộc tính, kết cấu, quy luật vận động; con người nắm bắt lấy các đặc điểm thuộc tính đó, dần dần hình thành tri thức về thế giới.
– Trong hoạt động thực tiễn, con người dần tự hoàn thiện bản thân mình, các giác quan của con người ngày càng phát triển. do đó, làm tăng khả năng nhận thức của con người về thế giới.
– Trong bản thân nhận thức có động lực trí tuệ. Nhưng suy cho cùng thì đông lực cơ bản của nhận thức là thực tiễn. Trong hoạt động thực tiễn con người đã vấp phải nhiều trở ngại, khó khăn và thất bại. Điều đó buộc con người phải giải đáp những câu hỏi do thực tiễn đặt ra. Ănghen nói: Chính thực tiễn đã “đặt hàng” cho các nhà khoa học phải giải đáp những bế tắc của thực tiễn (ngày càng nhiều ngành khoa học mới ra đời để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn như khoa học vật liệu mới, khoa học đại dương, khoa học vũ trụ…)
– Trong hoạt động thực tiễn, con người chế tạo ra các công cụ, phương tiện có tác dụng nối dài các giác quan, nhờ vậy làm tăng khả năng nhận thức của con người về thế giới.
3. Ví dụ thực tiễn là cơ sở của nhận thức
Để có cái nhìn khái quát về nhận định thực tiễn là cơ sở của nhận thức Luật Minh Khuê xin giới thiệu đến bạn đọc một số ví dụ như sau:
- Để đáp ứng nhu cầu mua nhu yếu phẩm tại nhà cho mọi người, các dịch vụ chuyển đồ ăn nhanh đã ra đời hàng loạt có thể kể đến là shopeefood, baemin,...
- Để giảm thời gian tìm kiếm bạn đời phù hợp với "gu" của giới trẻ các chương trình ghép đôi và app hẹn hò được đưa vào sử dụng ngày càng rộng rãi.
Như vậy, thực tiễn là mục đích của nhận thức, đồng thời mục đích cuối cùng của nhận thức là nhằm cải tạo thực tại khách quan đáp ứng được nhu cầu khách quan cũng như nhu cầu vật chất và tinh thần của con người.
Trên đây là nội dung tư vấn của Luật ACC về Vì sao nói thực tiễn là cơ sở của nhận thức dành cho quý bạn đọc. Chúng tôi đã lựa chọn, tổng hợp và phân tích những vấn đề pháp lý liên quan nhất , hy vọng đem đến những kiến thức hữu ích cho bạn. Trong quá trình tham khảo bài viết nếu còn nội dung nào chưa rõ bạn vui lòng phản hồi hoặc liên hệ với chúng tôi theo thông tin phía dưới để được kịp thời hỗ trợ.
Nội dung bài viết:
Bình luận