Quan hệ nhân thân là thuật ngữ được sử dụng nhiều trong các văn bản luật, đặc biệt là trong pháp luật dân sự. Vậy hiểu thế nào về vi phạm quan hệ nhân thân? Bài viết dưới đây của Công ty Luật ACC sẽ cung cấp thông tin về Thế nào là vi phạm quan hệ nhân thân? [Cập nhật 2023]. Mời các bạn tham khảo.

1. Quan hệ nhân thân là gì?
Nhân thân là quyền dân sự gắn liền với bản thân người đó; được hình thành; phát sinh; thay đổi hoặc chấm dứt bằng những quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Yếu tố nhân thân được xem là quan trọng trong việc xét lý lịch tư pháp và đặc biệt là cơ sở để quyết định hình phạt, cho hưởng án treo, xóa án tích trong các vụ án hình sự.
Quan hệ nhân thân thuộc đối tượng điều chỉnh của nhiều ngành luật khác nhau. Khi nói tới quan hệ nhân thân; chúng ta có thể hiểu các quan hệ này xuất phát từ các giá trị tinh thần của chủ thể; giá trị tinh thần này có thể gắn liền với lợi ích về kinh tế hoặc có thể không gắn liền với lợi ích về kinh tế. Quan hệ nhân thân là một trong hai đối tượng điều chỉnh của Luật dân sự.
Quan hệ nhân thân phát sinh vì lợi ích tinh thần; luôn gắn liền với chủ thể nó không mang tính hàng hóa – tiền tệ và không thể tính được bằng giá trị. Nếu như ở quan hệ tài sản, có thể có sự dịch chuyển tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác thì trong quan hệ nhân thân; việc dịch chuyển các giá trị tinh thần là không thể thực hiện được.
2. Đặc điểm của quan hệ nhân thân
Các quyền nhân thân được nhiều ngành luật điều chỉnh. Luật hành chính quy định về trình tự, thủ tục để xác định các quyền nhân thân: phong các danh hiệu cao quý của Nhà nước; tặng thưởng các loại huân, huy chương; công nhận các chức danh… Luật hình sự bảo vệ các giá trị nhân thân bằng cách quy định: những hành vi nào khi xâm phạm đến những giá trị nhân thân nào được coi là tội phạm (như các tội: Vu khống, làm nhục người khác, làm hàng giả…). Một trong những yếu tố thể hiện sự khác nhau trong quan hệ nhân thân do từng ngành luật điều chỉnh đó chính là đặc điểm của quan hệ nhân thân đó.
Quan hệ nhân thân do Luật dân sự điều chỉnh có những đặc điểm nỗi bật đó là:
– Thứ nhất, quan hệ nhân thân do Luật dân sự điều chỉnh luôn luôn liên quan đến một lợi ích tinh thần. Lợi ích tinh thần có thể là những giá trị tinh thần được pháp luật ghi nhận và mọi người tôn trọng như danh dự, nhân phẩm, uy tín… Nhưng lợi ích tinh thần đó cũng có thể là kết quả của hoạt động lao động sáng tạo của con người (các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp, cây trồng). Lợi ích tinh thần là yếu tố chi phối quan hệ nhân thân do Luật dân sự điều chỉnh – để phân biệt với quan hệ tài sản, luôn liên quan đến tài sản.
– Thứ hai, quan hệ nhân thân không xác định được bằng tiền – Giá trị nhân thân và tiền tệ không phải là những đại lượng tương đương và không thể trao đổi ngang giá. Trong quá trình tham gia vào các quan hệ xã hội, lợi ích tinh thần của cá nhân có thể do pháp luật quy định cho cá nhân, có thể do cá nhân có được liên quan đến hoạt động sáng tạo tinh thần, tuy nhiên các lợi ích tinh thần đó không thể định giá thành tiền hay nói cách khác về mặt pháp lí quan hệ nhân thân mang tính chất phi tài sản.
– Thứ ba, các lợi ích tinh thần luôn gắn liền với chủ thể. Pháp luật dân sự thừa nhận quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân mà không thể chuyển dịch cho chủ thể khác. Các quyền dân sự nói chung, quyền nhân thân nói riêng là do Nhà nước quy định cho các chủ thể dựa trên những điều kiện kinh tế – xã hội nhất định. Do vậy, về mặt nguyên tắc, cá nhân không thể dịch chuyển quyền nhân thân cho chủ thể khác, nói cách khác quyền nhân thân không thể là đối tượng trong các giao dịch dân sự giữa các cá nhân. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt pháp luật quy định thì quyền nhân thân có thể chuyển giao cho chủ thể khác. Ví dụ: Theo quy định tại điểm c, khoản 2, Điều 738 Bộ luật dân sự năm 2005 thì quyền công bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm được coi là quyền nhân thân thuộc quyền tác giả. Tuy nhiên, quyền công bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm của tác giả có thể được chuyển giao cho người khác khi đảm bảo các điều kiện do pháp luật về sở hữu trí tuệ quy định (khoản 1, Điều 742 – Chuyển giao quyền tác giả). Mặc dù vậy thì vẫn có những yếu tố gắn liền với chủ thể mà không thể thay đổi được.
– Thứ tư, các lợi ích tinh thần không thể bị hạn chế hoặc tước bỏ, trừ trường hợp pháp luật quy định. Mỗi chủ thể có những giá trị nhân thân khác nhau nhưng được bảo vệ như nhau khi các giá trị đó bị xâm phạm.
3. Vi phạm quan hệ nhân thân là gì?
Vi phạm quan hệ nhân thân là những hành vi vi phạm pháp luật, xâm hại tới quan hệ nhân thân (liên quan đến các quyền nhân thân không thể chuyển giao cho người khác ví dụ như quyền đối với họ tên, quyền được khai sinh, bí mật đời tư, quyền xác định lại giới tính,...).
Vi phạm quan hệ nhân thân là một dạng của vi phạm dân sự. Người có hành vi vi phạm dân sự phải chịu trách nhiệm dân sự. Người đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi khi tham gia các giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật ( bố, mẹ, người giám hộ) đồng ý. Khi đó có các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm dân sự phát sinh từ giao dịch dân sự do người đại diện xác lập và thực hiện.
Trên đây là tất cả thông tin về Thế nào là vi phạm quan hệ nhân thân? [Cập nhật 2023] mà Công ty Luật ACC cung cấp tới các bạn đọc giả. Nếu các bạn đọc giả còn có bất kỳ thắc mắc hay góp ý nào liên quan đến bài viết hoặc những vấn đề pháp lý khác hãy liên hệ với Công ty Luật ACC để nhận được sự hỗ trợ từ đội ngũ luật sư và các tác giả. Chúng tôi luôn sẵn lòng giải đáp thắc mắc của các bạn đọc. Trân trọng!
Nội dung bài viết:
Bình luận