Trên thực tế, có nhiều người nhận được tài sản do người khác nhưng không có ý định trả lại tài sản đố cho chủ sở hữu dân tới việc họ phải trình báo với cơ quan có thẩm quyền để yêu cầu lấy lại tài sản. Những người có hành vi chiếm giữ trái phép tài sản của người khác có thể bị xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi chiếm giữ tài sản trái phép được dựa trên giá trị tài sản chiếm giữ. Vậy chiếm giữ trái phép tài sản là gì? Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, mời bạn đọc cùng theo dõi bài viết: Cho ví dụ về tội chiếm giữ trái phép tài sản.
Cho ví dụ về tội chiếm giữ trái phép tài sản
1. Chiếm giữ trái phép tài sản của người khác là gì?
Có thể hiểu, chiếm giữ trái phép tài sản là việc cố tình không trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc không tiến hành giao nộp cho cơ quan có trách nhiệm: Tài sản, cổ vật hoặc vật mang giá trị lịch sử, văn hóa… không may bị giao nhầm hoặc do mình tìm được, bắt được sau khi có yêu cầu được nhận lại tài sản đó theo quy định.
Như vậy, theo cách hiểu trên, người thực hiện hành vi vi phạm có được tài sản là do bị giao nhầm, do mình tìm được hoặc nhặt được.
Khi chủ sở hữu, người quản lý tài sản yêu cầu được nhận lại tài sản nhưng người này cố tình không trả lại thì được xác định là hành vi chiếm giữ trái phép tài sản.
2. Cấu thành tội chiếm giữ trái phép tài sản
Mặt khách quan của tội chiếm giữ trái phép tài sản
Về hành vi: Đối tượng có hành vi (không hành động) cố tình không trả lại tài sản, cổ vật hoặc các vật mang giá trị lịch sử, văn hóa cho phía chủ sở hữu, người quản lý một cách hợp pháp hoặc không tiến hành giao nộp cho phía cơ quan có trách nhiệm.
Tài sản, cổ vật, vật có giá trị lịch sử văn hóa nêu trên mà người thực hiện hành vi phạm tội chiếm hữu, có được do bị người khác giao nhầm hoặc do chính người phạm tội tìm được, bắt được.
Về giá trị tài sản: Trường hợp giá trị tài sản chiếm đoạt được phải từ 10.000.000 đồng trở lên mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Đối với cổ vật hoặc các vật mang giá trị lịch sử văn hóa thì pháp luật không quy định giá trị để làm căn cứ trách nhiệm hình sự vì đây là những vật mang giá trị về mặt tinh thần hết sức quý giá nên không thể tiến hành định giá một cách cụ thể như những loại tài sản thông thường.
Lưu ý:
Để có thể xác định là cổ vật, vật mang giá trị lịch sử thì phải có kết luận giám định từ phía cơ quan, tổ chức có thẩm quyền hoặc đã có quyết định của cơ quan có thẩm quyền từ trước đó về việc công nhận đó là cổ vật, vật có giá trị lịch sử, văn hóa.
Tài sản bị giao nhầm ở đây được hiểu là tài sản có giá trị từ 10 triệu đồng trở lên hoặc là cổ vật có giá trị lịch sử văn hóa do phía người giao bị nhầm lẫn. Phía người giao sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm cho sự nhầm lẫn này. Người nhận tài sản không có bất kỳ một thủ đoạn gian dối nào, để phía bên giao tài sản tưởng nhầm mà giao tài sản của mình. Trường hợp người nhận tài sản bị giao nhầm có các thủ đoạn gian dối nhằm mục đích để người giao tin tưởng mà giao nhầm sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Thời điểm được xem là hoàn thành tội phạm được bắt đầu tính từ lúc sau khi chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc cơ quan có trách nhiệm yêu cầu được nhận lại tài sản đó theo pháp luật quy định mà phía người chiếm hữu tài sản, cổ vật, vật có giá trị lịch sử văn hóa vẫn cố tình không trả lại.
Thời điểm này có thể là ngay sau khi có yêu cầu trả lại tài sản, cổ vật, vật mang giá trị về mặt lịch sử, văn hóa hoặc ngay sau khi thời hạn người yêu cầu đưa ra chính thức kết thúc.
Như vậy, bắt đầu từ thời điểm yêu cầu giao trả tài sản kết thúc thì việc chiếm giữ các đối tượng nêu trên của người bị yêu cầu sẽ trở thành bất hợp pháp.
Tuy nhiên, trường hợp nếu do hoàn cảnh khách quan gây ảnh hưởng đến việc giao trả thì người đang chiếm hữu các đối tượng nêu trên sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội danh này.
Khách thể tội chiếm giữ trái phép tài sản
Các hành vi phạm tội được nêu trên xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác.
Khách thể của tội chiếm giữ trái phép tài sản cũng tương tự như các tội có tính chất chiếm đoạt khác, nhưng tội chiếm giữ trái phép tài sản, không xâm phạm đến quan hệ nhân thân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu, đây cũng là một điểm khác với các tội có tính chất chiếm đoạt như cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản, đặc điểm này được thể hiện trong cấu thành tội chiếm giữ trái phép tài sản nhà làm luật không quy định thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ là tình tiết định khung hình phạt.
Vì vậy, nếu sau khi đã chiếm giữ được tài sản, người phạm tội bị đòi lại tài sản mà có hành vi dũng vũ lực, gây chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội còn phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người hoặc tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Mặt chủ quan tội chiếm giữ trái phép tài sản
Đối tượng thực hiện hành vi phạm tội này với lỗi cố ý.
Người phạm tội biết tài sản đó không thuộc quyền sở hữu, quản lý của mình, biết mình có nghĩa vụ phải trả lại cho chủ tài sản hoặc phải giao nộp cho cơ quan Nhà nước có trách nhiệm.
Nhưng vì muốn biến tài sản đó thành tài sản của mình nên cố tình không trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc giao nộp cho cơ quan có thẩm quyền về tài sản.
Chủ thể tội chiếm giữ trái phép tài sản
Người có năng lực trách nhiệm hình sự là chủ thể của tội này.
Tuy nhiên, người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này, vì tội phạm này có hai khoản nhưng không có trường hợp nào quy định là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
Hình phạt đối với hành vi chiếm giữ trái phép tài sản của người khác
Mức hình phạt của tội chiếm giữ trái phép tài sản được chia thành hai khung, cụ thể như sau:
Trường hợp có đủ các dấu hiệu cấu thành cơ bản được nêu ở mặt khách quan sẽ có mức hình phạt là xử phạt hành chính với số tiền từ 10.000.000 đồng lên đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ trong thời gian 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng cho đến 02 năm.
Phạt tù trong thời gian từ 01 năm lến đến 05 năm áp dụng đối với trường hợp phạm tội chiếm giữ tài sản trái phép có giá trị từ 200.000.000 triệu đồng trở lên hoặc là cổ vật, vật có giá trị lịch sử – văn hóa mang giá trị đặc biệt.
3. Cho ví dụ về tội chiếm giữ trái phép tài sản
Bản án số 25/2021/HSST ngày 23/4/2021 “V/v xét xử bị cáo NTL về tội cố ý chiếm giữ tài sản” của Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội.
Vào thời gian buổi sáng ngày 20/01/2020 bị cáo N T L đến Phòng giao dịch PT thuộc Ngân hàng TMCP đầu tư và phát triển Việt Nam - Chi nhánh ST (Ngân hàng BIDV), có trụ sở tại: Tổ dân phố số 6, thị trấn PT, huyện PT, Thành phố Hà Nội để làm thủ tục rút tiền gửi tiết kiệm. Do lúc đó khách hàng đến giao dịch đông nên nhân viên Phòng giao dịch đã hẹn bị cáo L đến buổi chiều.
Đến thời gian khoảng 14 giờ bị cáo cùng chồng là ông Nguyễn Đức A đến Phòng giao dịch để làm thủ tục rút tiền. Sau khi nhận được yêu cầu rút tiền của bị cáo, chị N T L1 là nhân viên Phòng giao dịch của Ngân hàng đã tiếp nhận và làm các thủ tục để bị cáo rút tiền. Chị N T L1 đã hướng dẫn yêu cầu bị cáo điền đầy đủ thông tin vào các biên lai, chứng từ theo quy định. Bị cáo đã làm thủ tục kê khai để rút số tiền 780.000.000 đồng là tiền gửi tiết kiệm.
Quá trình làm việc,chị L1 đã làm thủ tục và kiểm đếm tiền của Phòng giao dịch bàn giao cho bị cáo tổng cộng số tiền là 780.025.000 đồng; bao gồm 780.000.000 đồng là tiền gốc và 25.000 đồng tiền lãi. Tuy nhiên trong quá trình kiểm đếm, chị L1 đã sơ suất đếm thừa một cọc tiền mệnh giá 500.000đồng, tổng giá trị là 50.000.000 đồng và bàn giao chung với số tiền 780.025.000 đồng.Như vậy, chị N T L1 đã bàn giao cho bị cáo tổng số tiền là 830.025.000 đồng.
Sau khi nhận tiền, bị cáo đã cho toàn bộ số tiền vào túi ni lông và ngay sau đó cùng chồng mang sang bên Ngân hàng Bưu điện LV, có trụ sở tại thị trấn PT, huyện PT, Thành phố Hà Nội để làm thủ tục gửi tiền tiết kiệm. Tại Ngân hàng Bưu điện LV, bị cáo là người trực tiếp giao dịch kiểm đếm số tiền 780.000.000 đồng và giao cho nhân viên Ngân hàng để gửi tiết kiệm. Trong khi kiểm đếm bị cáo phát hiện trong túi nilon còn một cọc tiền mệnh giá 500.000 đồng, bị cáo biết số tiền này do nhân viên Phòng giao dịch của Ngân hàng BIDV giao thừa trước đó. Sau khi gửi tiền tiết kiệm, bị cáo đã mang số tiền này về nhà cất giấu. Đến cuối giờ làm việc cùng ngày, Phòng giao dịch của Ngân hàng BIDV tiến hành kiểm quỹ theo quy định. Qua kiểm tra đối chiếu chứng từ, Ngân hàng phát hiện thiếu hụt số tiền 50.000.000 đồng nên đã yêu cầu các nhân viên giao dịch kiểm tra đối chiếu sổ sách, chứng từ nhưng không phát hiện nhầm lẫn, sai sót. Ngân hàng tiếp tục tiến hành kiểm tra lại hình ảnh camera an ninh lắp đặt tại từng quầy giao dịch, thì phát hiện chị N T L1 trong quá trình kiểm đếm, bàn giao tiền đã để nhầm lẫn, trả thừa một cọc tiền mệnh giá 500.000 đồng trong tổng số tiền đã bàn giao cho khách hàng là bị cáo N T L. Sau khi xác định bị cáo là người đã cầm thừa số tiền trên, đại diện Phòng giao dịch của Ngân hàng là bà Nguyễn Thị Minh T - Giám đốc Phòng giao dịch và chị N T L1 nhân viên Phòng giao dịch đã nhiều lần đến nhà gặp bị cáo trao đổi, giải thích và đề nghị xin được nhận lại số tiền 50.000.000 đồng đã giao thừa, nhưng bị cáo khẳng định không có việc nhận thừa tiền. Sau đó đại diện Phòng giao dịch và chị N T L1 có đơn trình báo, tố giác sự việc đến Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện PT, Thành phố Hà Nội đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.
Quá trình xác minh, giải quyết nguồn tin báo tố giác, bị cáo nhiều lần không thừa nhận việc nhận thừa tiền, không trả lại số tiền mà nhân viên Phòng giao dịch đã trả thừa. Ngày 15/6/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trưng cầu Viện khoa học hình sự - Bộ Công an giám định hình ảnh đối với đoạn video clip được trích xuất thu giữ từ camera an ninh của Phòng giao dịch. Ngày 18/8/2020 Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an đã kết luận: Không phát hiện dấu hiệu cắt ghép, chỉnh sửa trong nội dung tệp video gửi giám định. Phần thuộc tính của tệp tin thể hiện tệp tin trên được khởi tạo vào ngày 21/01/2020. Tuy nhiên thời gian khởi tạo trên phụ thuộc vào thời gian của hệ thống và có thể chỉnh sửa được. Xác định được nhân viên Ngân hàng đã đưa tổng cộng cho bị cáo L là 03 (Ba) cọc tiền, 01 tập tiền và 02 tờ tiền, cụ thể gồm: 17 (Mười bảy) tập tiền chứa các tờ tiền có mệnh giá 500.000 đồng trong đó có 16 (Mười sáu) tập tiền có ít nhất 100 tờ tiền và 01 tập tiền có ít nhất 58 tờ tiền; 01 tờ tiền có mệnh giá 20.000 đồng; 01 tờ tiền có mệnh giá 5.000 đồng.
Sau khi nhận được thông báo về nội dung kết luận giám định, ngày 21/9/2020 bị cáo đã tự nguyện đến Cơ quan điều tra - Công an huyện PT, Thành phố Hà Nội giao nộp số tiền 50.000.000 đồng và thừa nhận số tiền trên là của nhân viên Phòng giao dịch PT đưa thừa cho bị cáo.
Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Do vậy, cần phải xử lý hình phạt đối với bị cáo tương xứng với hành vi đã gây ra để giáo dục đối với bị cáo.
Vì lẽ đó, Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội quyết định tuyên bố bị cáo N T L phạm tội chiếm giữ trái phép tài sản, xử phạt phạt tiền bị cáo N T L 15.000.000 (Mười lăm triệu) đồng về tội Chiếm giữ trái phép tài sản.
Trả lại Ngân hàng TMCP đầu tư và phát triển Việt Nam - Chi nhánh ST – Phòng giao dịch PT số tiền 50.000.000 (Năm mươi triệu) đồng
(Số tiền này đã được Công an huyện PT, Thành phố Hà Nội nộp vào tài khoản của Chi cục thi hành án dân sự huyện PT, Thành phố Hà Nội tại Giấy nộp tiền vào tài khoản lập ngày 22/4/2021).
Trên đây là các nội dung giải đáp của chúng tôi về Chiếm giữ trái phép tài sản của người khác là gì? Trong quá trình tìm hiểu, nếu như các bạn cần Công ty Luật ACC hướng dẫn các vấn đề pháp lý vui lòng liên hệ với chúng tôi để được giải đáp.
Nội dung bài viết:
Bình luận