ví dụ về hình phạt cải tạo không giam giữ
1. Cải tạo không giam giữ là gì?
Cải tạo không giam giữ là hình phạt không buộc người bị kết án phải cách ly khỏi xã hội mà giao cho cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội giám sát, giáo dục nhằm phát huy vai trò của quần chúng nhân dân tham gia cải tạo, giáo dục người phạm tội.
Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định về cải tạo không giam giữ như sau:
Điều 36. Cải tạo không giam giữ
- Phạt cải tạo không giam giữ được áp dụng từ 06 tháng đến 03 năm đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này quy định và đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng. .
Trường hợp người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm giam trước khi xét xử thì thời gian bị tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành bản án cải tạo không giam giữ, cứ mỗi ngày tạm giữ, tạm giam được trừ 01 ngày. tương đương với 3 ngày giam giữ không cải tạo.
- Tòa án giao người bị phạt cải tạo không giam giữ cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, Ủy ban nhân dân cấp xã để giám sát, giáo dục người đó.
- Trong thời hạn chấp hành án, người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo quy định về hình phạt cải tạo không giam giữ và bị khấu trừ thu nhập từ 05% đến 20% để sung quỹ nhà nước. Việc khấu trừ thu nhập được thực hiện hàng tháng. Trường hợp đặc biệt, Toà án có thể miễn việc khấu trừ thu nhập, nhưng phải ghi rõ lý do trong bản án.
Không khấu trừ thu nhập đối với người bị kết án thực hiện nghĩa vụ quân sự.
- Nếu người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành bản án này thì phải lao động công ích một thời gian nhất định trong thời gian cải tạo không giam giữ.
Thời giờ lao động công ích không quá 04 giờ trong một ngày và không quá 05 ngày trong một tuần.
Biện pháp phục vụ cộng đồng không áp dụng đối với phụ nữ có thai, trẻ em dưới 6 tháng tuổi, người già yếu, người mắc bệnh hiểm nghèo, người khuyết tật nặng hoặc đặc biệt nặng.
Người bị kết án phạt cải tạo không giam giữ phải thực hiện các nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự.”
Theo quy định của pháp luật, cải tạo không giam giữ là hình phạt chính được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng. Trong các hình phạt thì hình thức xử phạt này nhẹ hơn phạt tù nhưng nặng hơn phạt tiền và cảnh cáo.
Khác với hình phạt tù, hình phạt cải tạo không giam giữ không buộc người bị kết án phải cách ly khỏi xã hội. Vì vậy, trong thực tiễn xét xử, việc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ chỉ áp dụng trong trường hợp tội phạm ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng và bị cáo là người có nơi làm việc, nơi cư trú ổn định, rõ ràng. Khi thi hành các bản án này, Toà án giao người bị kết án cho cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội nơi người đó làm việc hoặc cư trú thường xuyên để giám sát, giáo dục.
điều 3 của điều luật quy định: Người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo quy định về hình phạt cải tạo không giam giữ và bị khấu trừ thu nhập từ 5% đến 20% để sung công quỹ của Nhà nước. Cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát, giáo dục không được áp đặt thêm những hạn chế đối với quyền và nghĩa vụ của công dân bị kết án.
2. Ví dụ về cải tạo không giam giữ
Ví dụ: Nguyễn Văn A đột nhập vào nhà người khác lấy trộm tài sản là chiếc điện thoại, định giá chiếc điện thoại là 9.000.000 đồng. Hành vi do bị can A thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS. Đồng thời, bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng.
Nếu bị cáo có nơi cư trú rõ ràng và xét xử xét thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt tù thì bị cáo có thể bị phạt cải tạo không giam giữ theo quy định của pháp luật.
3. Những lưu ý khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ:
Hình phạt cải tạo không giam giữ là hình phạt chính nên Tòa án còn có thể quyết định hình phạt bổ sung mà Bộ luật quy định đối với tội này;
Việc khấu trừ vào thu nhập của người bị kết án để sung quỹ nhà nước không phải là bắt buộc trong mọi trường hợp. Toà án phải căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện, tình hình thực tế về thu nhập, tài sản cũng như hoàn cảnh cụ thể của người phạm tội để quyết định có giảm trừ của họ hay không. Nếu vậy, làm thế nào. Trường hợp người bị phạt cải tạo không giam giữ là người chưa thành niên thì không bị trừ thu nhập;
Hình phạt cải tạo không giam giữ áp dụng đối với cả quân nhân phạm tội hay nói cách khác là thay hình phạt cải tạo tại đơn vị kỷ luật quân đội bằng hình phạt cải tạo không giam giữ là một sự điều chỉnh hợp lý trên cơ sở tổng kết thực tiễn nhằm tạo sự đồng thuận. điều kiện để phạm nhân được học tập, tu dưỡng, cải tạo trong chính tập thể nơi phạm nhân phục vụ, công tác.
Kết luận: Hình phạt cải tạo không giam giữ và hình phạt có điều kiện có nhiều điểm giống nhau nhưng không đồng nhất. Mặc dù, cùng có tính chất giáo dục, quản lý người bị kết án, nhưng thực tiễn thi hành án “cải tạo không giam giữ” hoặc phạt tù có thời hạn nhưng cho người phạm tội hưởng “án treo” cũng có những nhược điểm nhất định.
Nội dung bài viết:
Bình luận