Đương sự trong vụ án dân sự bao gồm: nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự; người khởi kiện. Trường hợp một trong những người này vắng mặt tại phiên toà thì giải quyết như thế nào? Bài viết phân tích chi tiết:1. Khái niệm vụ việc dân sự
Vụ việc dân sự là tranh chấp phát sinh giữa các bên bị hại mà theo quy định, cá nhân, cơ quan, tổ chức tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện ra Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
- Vụ việc là vụ việc dân sự khi:
Có tranh chấp giữa các bên;
Có hành vi khởi kiện tại tòa án;
Tòa án phải thụ lý vụ tranh chấp này. Các bên không có tranh chấp;
Có đơn khởi kiện;
Tòa án phải chấp nhận yêu cầu.
2. Các bước tiến hành vụ án dân sự
Bước 1: Thụ lý vụ việc
Theo quy định tại Điều 191 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì Tòa án phải nhận đơn yêu cầu khởi kiện do đương sự nộp trực tiếp cho Tòa án hoặc gửi qua đường bưu điện và phải vào sổ nhận đơn. Trường hợp Tòa án nhận được đơn yêu cầu công lý được gửi trực tuyến thì Tòa án in ra bản giấy và phải ghi vào sổ nhận đơn.
- Khi nhận đơn khởi kiện trực tiếp, Tòa án cấp ngay giấy xác nhận đã nhận đơn cho người khởi kiện.
Đối với trường hợp nhận đơn qua dịch vụ bưu chính thì trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn, Tòa án phải gửi thông báo nhận đơn cho người khởi kiện.
Trường hợp nhận đơn khởi kiện bằng phương thức gửi trực tuyến thì Tòa án phải thông báo ngay việc nhận đơn cho người khởi kiện qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có).
- Chánh án tòa phân công Thẩm phán xem xét đơn (Trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày nhận đơn)
- Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày Thẩm phán đước phân công xem xét đơn khởi kiện, Tòa án phải xem xét và có một trong các quyết định sau đây:
Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện;
Tiến hành thủ tục thụ lý vụ án theo thủ tục thông thường hoặc theo thủ tục rút gọn nếu vụ án có đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục rút gọn quy định tại khoản 1 Điều 317 của Bộ luật này;
Chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền và thông báo cho người khởi kiện nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án khác;
Trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện nếu vụ việc đó không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Bước 2: Chuẩn bị xét xử
- Đối với các vụ án quy định tại Điều 26 và Điều 28 của Bộ luật này thì thời hạn là 04 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án;
Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá 02 tháng.
- Đối với các vụ án quy định tại Điều 30 và Điều 32 của Bộ luật này thì thời hạn là 02 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án.
Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá 01 tháng.
- Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, tùy từng trường hợp, Thẩm phán ra một trong các quyết định sau đây:
Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự;
Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự;
Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự;
Đưa vụ án ra xét xử.
Trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa, trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là 02 tháng (Điều 203)
Bước 3: Hòa giải vụ án
- Theo quy định tại Khoản 1 Điều 205 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được quy định tại Điều 206 và Điều 207 BLTTDS.
Ra quyết định hòa giải thành khi không có đương sự thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận;
Trong trường hợp hòa giải không thành, Thẩm phán chủ tọa phiên hòa giải lập biên bản hòa giải không thành và thực hiện các thủ tục tiếp theo để đưa vụ án ra xét xử.
Bước 4: Mở phiên tòa xét xử
Theo quy định tại Điều 222 BLTTDS 2015 phiên tòa phải được tiến hành đúng thời gian, địa điểm đã được ghi trong quyết định đưa vụ án ra xét xử hoặc trong giấy báo mở lại phiên tòa trong trường hợp phải hoãn phiên tòa. Những người tham gia phiên tòa được quy định từ Điều 227 đến Điều 232 BLTTDS, cụ thể: đương sự; Đại diện của đương sự; Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; Nhân chứng; Thanh tra viên; Thông dịch viên và công tố viên.
3. Đương sự trong vụ án dân sự
Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành, đương sự là người có quyền lợi, nghĩa vụ trong vụ án dân sự tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc có trường hợp mặc dù không có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án dân sự nhưng tham gia tố tụng để bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, lợi ích của người khác. Họ có thể là cá nhân, cơ quan, tổ chức (tổ chức có tư cách pháp nhân. Việc tiến hành tố tụng của họ có thể dẫn đến việc khởi kiện, sửa đổi hoặc đình chỉ tố tụng, họ là bộ phận quan trọng của vụ việc dân sự, nếu không có đương sự thì sẽ không có vụ việc dân sự nào được đưa ra trước Tòa án). Khi tham gia tố tụng dân sự, đương sự có quyền xác định lợi ích của mình.
Đương sự trong vụ án dân sự bao gồm: nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự; người khởi kiện.
- Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người đã hồi phục sức khỏe sau phiên tòa hoặc người được cá nhân, cơ quan, tổ chức khác ủy quyền theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành nộp đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Các cơ quan, đơn vị theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích nhà nước về việc mình chịu trách nhiệm.
Bị đơn trong vụ án dân sự là người bị nguyên đơn hoặc người, cơ quan, tổ chức khác khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm phạm. - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người mặc dù không bị khởi tố, không phải là người khởi kiện, không bị khởi tố nhưng khi giải quyết vụ việc dân sự có liên quan đến quyền, nghĩa vụ dân sự của mình thì họ có thể đề nghị hoặc đề nghị đương sự khác đề nghị đưa mình tham gia tố tụng: hoặc do Tòa án chủ động đưa mình vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi liên quan.
- Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người tham gia tố tụng đưa ra yêu cầu về việc giải quyết vụ án dân sự. Việc tham gia tố tụng dân sự của nguyên đơn cũng có tính chủ động như nguyên đơn tham gia tố tụng dân sự. Tuy nhiên, yêu cầu của họ chỉ giới hạn trong phạm vi yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ của mình hoặc của người, cơ quan, tổ chức khác; yêu cầu Tòa án công nhận các quyền dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của mình.
4. Quy định về triệu tập đương sự đến Tòa án
Tìm hiểu các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành để xác định những hoạt động nào của Tòa án phải được triệu tập và khi nào các bên liên quan có nghĩa vụ phải có mặt theo triệu tập của Tòa án hay không, tác giả nhận thấy việc triệu tập Tòa án khá đa dạng về thời gian của thủ tục (gồm sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm...); cũng như đối tượng được triệu tập (gồm: đương sự dân sự và những người tham gia tố tụng khác). Tuy nhiên, quy định về hoạt động tố tụng mà Tòa án (thẩm phán) có thẩm quyền triệu tập còn nhiều tranh cãi. Đồng thời, do còn tranh cãi về việc xác định đối tượng hoạt động tố tụng mà Tòa án có quyền triệu tập nên ảnh hưởng đến việc xác định Tòa án có thực hiện “giấy triệu tập hợp lệ” hay không. Nói cách khác, nếu Tòa án triệu tập các hoạt động tố tụng không đúng với quy định của Luật tố tụng dân sự thì đây là một trong những trường hợp Tòa án hủy bỏ trát hầu tòa.
Nghiên cứu một số quy định liên quan đến việc Tòa án triệu tập các chủ thể nói chung và đương sự trong vụ án dân sự nói riêng cho thấy, có một vướng mắc dai dẳng trong việc xác định hoạt động tố tụng nào mà Tòa án có quyền “triệu tập”. Pháp luật tố tụng dân sự quy định chủ thể có nhiệm vụ, quyền triệu tập đương sự là Thẩm phán khi được Chánh án Toà án bổ nhiệm (Khoản 9, Điều 48 BLTTDS). Thẩm phán chỉ triệu tập những người tham gia “phiên tòa, phiên họp”.
5. Xử lý sự vắng mặt của đương sự khi Tòa án đã triệu tập hợp lệ
Để bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các đương sự có mặt tại phiên tòa, Tòa án phải triệu tập hợp lệ các đương sự và người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ (nếu một trong những người này có mặt) đến phiên tòa. Toà án chỉ có thể xét xử các bên liên quan khi vắng mặt các bên liên quan trong những trường hợp pháp luật có quy định thì việc xét xử mới được coi là hợp pháp. Nếu như Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 quy định về các trường hợp có mặt của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tại các điều 199, 200, 201, 203 thì nay Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 có hiệu lực, theo quy định tại các điều 227, 228, sự có mặt của đương sự sau Điều 227 là người bảo vệ chính đáng của đương sự. quyền đương sự và đại diện của con kiến. :
“Điều 227. Sự có mặt của đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
1. Theo giấy triệu tập hợp lệ lần thứ nhất, đương sự hoặc người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ phải có mặt tại phiên tòa; nếu có người vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Tòa án phải thông báo cho đương sự, người đại diện, luật sư của họ về quyền và lợi ích hợp pháp của họ về việc hoãn phiên tòa.
2. Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt tại phiên tòa, trừ trường hợp họ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; nếu vắng mặt vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì Tòa án có thể hoãn phiên tòa, nếu không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì xử lý như sau:
a) Nguyên đơn vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện và Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu khởi kiện của người đó, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Nguyên đơn có quyền khởi kiện lại theo quy định của pháp luật;
b) Bị đơn không có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt họ;
c) Bị đơn có yêu cầu phản tố vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ yêu cầu phản tố và Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu phản tố, trừ trường hợp bị đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn có quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu phản tố đó theo quy định của pháp luật;
d) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ yêu cầu độc lập và Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu độc lập của người đó, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu độc lập đó theo quy định của pháp luật;
đ) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ.Từ quy định của Điều 199 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành nói trên, hiện có một vài vấn đề đang có sự nhận thức khác nhau:”
Quan điểm thứ nhất cho rằng, theo quy định tại khoản 1 Điều 199 thì khi Tòa án triệu tập hợp lệ phiên tòa lần thứ nhất mà có một đương sự vắng mặt, hoặc các đương sự đều có mặt, nhưng có người đại diện của một hay nhiều đương sự vắng mặt, hoặc các đương sự, người đại diện đương sự đều có mặt nhưng vắng mặt một hay nhiều người bảo vệ quyển và lợi ích hợp pháp của một đương sự (đôì với vụ án mà có đương sự đã mòi nhiều người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình, và có một trong sô' người này vắng mặt) thì đểu phải hoãn phiên tòa.
Khi Tòa án triệu tập hợp lệ phiên tòa lần thứ hai mà cố đương sự, ngưồi đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (dù lần triệu tập lần thứ nhất họ có mặt, lần này họ mới vắng mặt) thì nếu người vắng mặt là nguyên đơn, người đại diện của nguyên đơn, mà sự vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng, không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt thì Tòa án sẽ đình chỉ giải quyết vụ án đối yới yêu cầu khỏi kiện của họ. Nếu bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập, vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt họ.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa và không có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt thì Tòa án quyết định đình chỉ việc giải quyết yêu cầu độc lập của họ.
Quan điểm thứ hai cho rằng, Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành quy định phiên tòa được triệu tập hợp lệ lần đầu, nhưng nếu đương sự hoặc người đại diện của họ là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, có người vắng mặt mà không có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt thì phải hoãn phiên tòa.
Khi giấy triệu tập lần thứ hai có hiệu lực mà đương sự vắng mặt (họ đã có mặt tại phiên tòa trong lần triệu tập trước) thì phiên tòa cũng phải hoãn. Nó chắc chắn sẽ có một lời giải thích như vậy
đương sự bình đẳng thì giải thích lý do tại sao hoãn phiên tòa xét xử lần đầu có người vắng mặt (trừ trường hợp người đó yêu cầu xét xử vắng mặt) và phiên tòa tiếp theo xét xử vắng mặt đương sự này lần thứ nhất phải hoãn phiên tòa nhưng không xét xử vắng mặt người đó. Hơn nữa, luật quy định giấy triệu tập lần thứ nhất hợp lệ, giấy triệu tập lần thứ hai hợp lệ... nhưng không quy định phiên tòa thứ nhất được triệu tập hợp lệ... nếu vắng mặt thì hoãn, phiên tòa lần thứ hai được triệu tập hợp lệ... nếu vắng mặt thì xét xử vắng mặt. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 chỉ quy định gộp ba điều (các điều 199, 200, 201) thành hai điều, còn hình thức thể hiện tại các quy định cơ bản vẫn giữ nguyên. Vì vậy, cần phải giải thích việc đương sự đã được triệu tập hợp lệ mà vắng mặt lần thứ hai để xét xử vắng mặt nhằm đảm bảo quyền vắng mặt duy nhất và quyền có mặt của các đương sự tại phiên tòa, để mọi người đều công bằng giữa các bên liên quan.
Nếu bị đơn vắng mặt và không cử người đại diện tham gia phiên tòa thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt người đó; trường hợp vụ án có nhiều bị cáo, nếu một trong các bị cáo vắng mặt mà không cử người đại diện tham gia phiên tòa thì Tòa án vẫn phải tiến hành xét xử vắng mặt bị cáo.
Bộ luật tố tụng dân sự 2015 chỉ hoãn phiên tòa khi Tòa án triệu tập hợp lệ đương sự lần đầu hoặc luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt. Khi Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà một trong những người tham gia tố tụng vẫn vắng mặt vì trường hợp bất khả kháng thì tùy từng trường hợp, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt người đó hoặc ra quyết định đình chỉ việc xét xử vụ án đối với yêu cầu hoặc yêu cầu độc lập của người vắng mặt. Quy định trên vừa nhằm bảo đảm quyền tố tụng của đương sự, đồng thời hạn chế việc đương sự lợi dụng quyền vắng mặt của mình để cố tình kéo dài thời gian xét xử vụ án, gây khó khăn cho các đương sự khác và Tòa án. Có thể quy định của Điều 199 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành sau khi được sửa đổi, bổ sung vẫn làm phát sinh những cách hiểu khác nhau mà các cơ quan chức năng như Tòa án, Viện kiểm sát... phải hướng dẫn trên cơ sở ý đồ của nhà làm luật. Nội dung báo cáo của Thượng tá Ủy ban Tư pháp và Thường trực Quốc hội không khuyến khích nhiều lần hoãn phiên tòa.
Như vậy, có thể hiểu rằng: Lần đầu tiên Tòa án triệu tập hợp lệ các đương sự hoặc người đại diện của họ, luật sư để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự mà một số đối tượng trên vắng mặt và họ không có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt thì việc vắng mặt đó có lý do chính đáng hoặc không có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên tòa. Khi hoãn phiên tòa, Tòa án phải thông báo cho đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ về việc hoãn phiên tòa; đối với đương sự vắng mặt thì phải gửi văn bản thông báo hoãn phiên tòa cho họ. Tòa án chỉ xét xử vắng mặt họ khi họ có yêu cầu xét xử vắng mặt.
Khi Toà án triệu tập hợp lệ đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ đến lần thứ hai mà có người vắng mặt vì trường hợp bất khả kháng thì Toà án phải hoãn phiên toà. Nếu sự vắng mặt này không phải do trường hợp bất khả kháng thì tùy từng trường hợp sẽ được xử lý như sau:
- Nếu chủ thể vắng mặt là đương đơn, người đại diện
Trường hợp tại phiên tòa mà nguyên đơn không có người đại diện đi cùng thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện và Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu của người đó, trừ trường hợp người đó có yêu cầu xét xử vắng mặt.
- Trường hợp bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì Tòa án có quyền ra quyết định vắng mặt họ.
- Nếu bị đơn có yêu cầu phản tố vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt họ và phiên tòa không xem xét yêu cầu phản tố của họ trong vụ án. Yêu cầu phản tố của bị đơn được Toà án bác bỏ, trừ trường hợp bị đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Bị đơn có yêu cầu phản tố có quyền yêu cầu phản tố lại đối với yêu cầu phản tố này, nếu thời hiệu vẫn còn.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập mà vắng mặt không có người đại diện tham gia phiên tòa thì được coi là từ bỏ yêu cầu độc lập của mình và Tòa án quyết định đình chỉ việc giải quyết yêu cầu độc lập của người đó. Nếu họ yêu cầu xét xử vắng mặt thì Tòa án không đình chỉ việc yêu cầu độc lập mà vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ.
- Trường hợp luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt thì Tòa án nhân dân luôn tiến hành xét xử vắng mặt họ.
Đôi với trường hợp nguyên đơn, người có quyển lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai, và không có sự kiện bất khả kháng mà vắng mặt nên đã bị Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết đối với đơn khỏi kiện, đơn yêu cầu độc lập, thì sau này nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập vẫn có quyển khỏi kiện lại, Tòa án phải thụ lý giải quyết theo thủ tục chung. Sau khi thụ lý, nếu thấy thời hiệu khởi kiện đã hết thì Tòa án căn cứ vào điểm h khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành đình chỉ giải quyết vụ án, nếu thời hiệu khỏi kiện vẫn còn thì tùy theo tài liệu, chứng cứ mà các bên xuất trình, Tòa án thu thập được để quyết định.
Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành có quy định về sự kiện bất khả kháng, cần hiểu sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trưốc được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.
Tại tiểu mục 1.2 mục 1 phần III Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12-5-2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn về vấn đề này như sau: “Đối với những trường hợp đương sự đà nhận được quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định tại khoản 2 Điều 220 của Bộ luật tố tụng dân sự, đã được Tòa án tống đạt hợp lệ giấy triệu tập phiên tòa theo quy định tại các điều từ Điều 174 đến Điều 181 của Bộ luật tố tụng dân sự và đương sự đã chuẩn bị tham dự phiên tòa xét xử vụ án, nhưng do sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan xảy ra đối với họ ngay vào thời điểm trước ngày Tòa án mở phiên tòa hoặc ngay trong thời điểm họ đang trên đường đến Tòa án để tham dự phiên tòa (do thiên tai, địch họa, bị tai nạn, ốm nặng phải đi bệnh viện cấp cứu, người thân bị chết...) nên họ không thể có mặt tại phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án, thì Tòa án cũng hoãn phiên tòa.
Trường hợp do Tòa án không nhận được thông báo từ phía đương sự nên vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt họ, nếu sau khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, đương sự có khiếu nại và chứng minh được việc họ vắng mặt tại phiên tòa là do sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan, thì khiếu nại cần được xem xét theo thủ tục tái thẩm”. Nếu sau này không có hướng dẫn gì thêm thì nội dung này của Nghị quyết 02 nêu trên vẫn có ý nghĩa tham khảo và áp dụng trên thực tế.
6. Các câu hỏi thường gặp về dân sự
6.1 Đại diện trong tố tụng dân sự?
Người đại diện trong tố tụng dân sự bao gồm người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền. Người đại diện theo pháp luật được quy định trong Bộ luật Dân sự là người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự, trừ trường hợp bị hạn chế quyền đại diện theo quy định của luật. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác cũng là người đại diện hợp pháp trong tố tụng dân sự của người được bảo vệ.
6.2 Ai là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự?
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người mà đương sự yêu cầu và được Toà án chấp nhận tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Những người này có thể là luật sư tham gia tố tụng theo quy định của Luật luật sư; hoặc là công dân Việt Nam có đủ năng lực nghĩa vụ pháp lý, chưa bị kết án hoặc bị kết án nhưng đã được xóa án tích, không thuộc trường hợp bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính, đưa vào cơ sở chữa bệnh, cơ sở giáo dục, quản chế hành chính; không phải là chấp hành viên và cán bộ của tòa án, cơ quan công tố và cơ quan công an.
6.3 Quy định xử lý chung?
Thụ lý là hoạt động của Toà án có thẩm quyền bắt đầu thụ lý vụ án để xem xét, giải quyết các yêu cầu, tranh chấp của nguyên đơn trong việc dân sự.
Trong lĩnh vực hình sự, thụ lý là hoạt động của Tòa án thụ lý vụ án khi Cơ quan công tố đã quyết định khởi tố bị can và chuyển hồ sơ cho Tòa án có thẩm quyền giải quyết.
Trong dân sự, việc thụ lý vụ án được coi là cơ sở đầu tiên để Tòa án có thẩm quyền bắt đầu quá trình giải quyết vụ án dân sự.
6.4 Khái niệm tạm đình chỉ vụ án, hoãn phiên tòa dân sự?
Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là việc Tòa án đình chỉ hoạt động tố tụng trong một thời hạn nhất định và lý do đình chỉ không còn thì Tòa án tiếp tục giải quyết. Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án khi có một trong các căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 213 Bộ luật dân sự 2015.
Hoãn phiên tòa là tạm đình chỉ việc xét xử vụ án theo thủ tục sơ thẩm hoặc phúc thẩm trong những trường hợp pháp luật có quy định.
Đình chỉ vụ án có nghĩa là một trong những thủ tục khép lại vụ án do Viện kiểm sát quyết định ở giai đoạn truy tố, của Thẩm phán chịu trách nhiệm chủ tọa phiên tòa ở giai đoạn chuẩn bị xét xử và của Hội đồng xét xử ở phiên phúc thẩm, giám đốc thẩm.
Nội dung bài viết:
Bình luận