1.Vận tải đường sông là gì?
Vận tải đường thủy nội địa về cơ bản cũng là một loại hình vận tải dưới hình thức đường thủy thông thường. Tuy nhiên, việc vận chuyển hàng hoá này chỉ giới hạn trong hệ thống “sông ngòi” trong giới hạn của một Quốc gia, ví dụ: hệ thống kênh rạch, sông ngòi, sông biển, v.v.
Hàng hóa sẽ được trung chuyển từ tỉnh này sang tỉnh khác thông qua hệ thống kết nối hàng hóa từ cảng, nhà ga, bến tàu… Hình thức này sẽ được phối hợp chặt chẽ với vận tải đường bộ để đảm bảo có thể kết nối rộng rãi đến tất cả các tỉnh thành (do nhiều địa phương không có vị trí địa lý giáp biển, sông phù hợp hoặc cần nhanh chóng kết nối hàng hóa tại các điểm phân phối).
Do chỉ giới hạn trong hệ thống “đường thủy” nội địa, chủ yếu là các phương tiện vận tải đường sông có tải trọng vừa và nhỏ, hàng hóa ít cồng kềnh.
2. Hiện trạng phát triển giao thông đường thủy?
Có thể nói, mặc dù nước ta có đường biển dài, trải dọc dải đất hình chữ S, mạng lưới kênh rạch chằng chịt nhưng vận tải đường sông Việt Nam vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng.
Vận tải đường sông phía Bắc và phía Nam đang có sự chênh lệch khá lớn về phát triển. Việc phát triển vận tải đường sông cũng gặp khó khăn do việc đầu tư phát triển các tuyến đường thủy trên sông, trong đê gặp nhiều khó khăn do chính sách, pháp luật về đê điều còn phức tạp…
Thống kê đến hết năm 2021, Việt Nam có khoảng 300 cảng và 6.900 bến thủy nội địa, trong đó số lượng bến được cấp phép là 5.450, có 2.526 bến ngang, trong đó sản lượng được cấp phép đạt khoảng 85%.
Cả nước có khoảng 235.000 phương tiện thủy với tổng trọng tải lên đến 19,6 triệu tấn. Sự bùng phát của dịch Covid là điều kiện ngoại cảnh ngẫu nhiên khiến vận tải đường sông phát triển. Quả thực, chỉ trong vòng 2 năm, vận tải đường sông đã dần tạo được đà phát triển và chiếm 20% vận tải hàng hóa toàn ngành vận tải.
Sản lượng khai thác theo tuyến này đạt 237 triệu tấn, tăng gần 3%.
Tuy có những bước “thần tốc” qua ngoại cảnh nhưng chúng tôi vẫn thấy những hạn chế.
- Tỷ trọng vận tải đường sông qua cảng biển còn rất thấp (trong khi 70% hàng hóa qua cảng biển lưu thông qua đây). - Các tuyến vận tải nhiều ùn tắc, cầu tĩnh không cao (tàu chuyển kho bãi)
vận tải thủy nội địa là gì
- Cự ly vận chuyển của vận tải thủy ngắn hơn so với đường bộ, việc kết nối giữa vận tải thủy với các phương thức vận tải khác chưa thuận lợi.
- Trang thiết bị cảng sông nước ta còn rất hạn chế, trình độ công nghệ thấp
- Số lượng bến cảng nội thành nhiều nhưng tổ chức chưa liên kết, quy mô nhỏ, còn mang tính tự phát, gây khó khăn cho công tác quản lý và tác động xấu đến môi trường.
- Phương tiện vận tải chủ yếu là phương tiện nhỏ, tải trọng thấp, hoạt động trên tuyến ngắn, không có nhiều phương tiện vận chuyển container (đáp ứng nhu cầu trung chuyển hàng hóa lớn cho các cảng biển.
Nội dung bài viết:
Bình luận