Vấn đề an sinh xã hội

Sau hơn 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đã “vào nhóm các nước đang phát triển có thu nhập trung bình”. 

 (1) và tiếp tục đẩy mạnh “công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức” 

 (2). Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh: phát triển kinh tế nhanh, bền vững đồng thời “thực hiện có hiệu quả tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội trong mọi giai đoạn, trong mọi chính sách phát triển”. 

 (3). Bảo đảm an sinh xã hội trở thành vấn đề trọng tâm trong chiến lược phát triển đất nước, bởi không ngừng chăm lo,  nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân là mục tiêu cao nhất của sự nghiệp xây dựng xã hội  Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Và hiện nay chúng ta đang phấn đấu đến năm 2020, hệ thống an sinh xã hội  bao phủ  toàn dân. 

 1.An sinh xã hội và cấu trúc của hệ thống an sinh xã hội 

 Do sự đa dạng về nội dung, phương pháp và cách tiếp cận nên các nhà nghiên cứu lý luận cũng như các nhà lãnh đạo thực tiễn  có nhiều cách hiểu về ASXH. Tổng hợp các ý kiến, có thể khái quát rằng, phạm trù an sinh xã hội thường được đề cập theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng: an sinh xã hội là sự bảo đảm thực hiện  quyền  con người vì hòa bình, an ninh và an toàn trong xã hội. Theo nghĩa hẹp, ASXH là sự đảm bảo về thu nhập và một số điều kiện thiết yếu khác cho cá nhân, gia đình và cộng đồng trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập  do bị giảm, mất khả năng lao động hoặc phải chuyển chỗ ở hoặc mất việc làm; cho  người già neo đơn, trẻ  mồ côi, người tàn tật,  người yếu thế,  bị  thiên tai… Bản chất của ASXH là tạo ra một tấm lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp cho mọi thành viên  trong công ty khi gặp khó khăn. , mất thu nhập hoặc các rủi ro khác. Chính sách an sinh xã hội là  chính sách xã hội cơ bản của nhà nước nhằm thực hiện chức năng phòng ngừa, hạn chế và kiểm soát rủi ro, bảo đảm  thu nhập và an toàn đời sống cho các thành viên trong xã hội.  Chính sách bảo hiểm xã hội là hệ thống các chính sách can thiệp của nhà nước (bảo hiểm xã hội, trợ giúp xã hội…) và  hỗ trợ của tổ chức hoặc tư nhân (các chế độ ngoài luật) nhằm giảm  nghèo  và tình trạng dễ bị tổn thương, nâng cao năng lực  bảo vệ của người dân và cộng đồng. mình trước những rủi ro, nguy cơ bị giảm hoặc mất thu nhập, bảo đảm ổn định, phát triển và công bằng xã hội.  Về cấu trúc  hệ thống ASXH: có nhiều quan điểm và cách tiếp cận khác nhau. Theo quan điểm phổ biến của các tổ chức quốc tế,  một hệ thống ASXH ít nhất phải có  3 cấu phần cơ bản tương ứng với 3 chức năng chính của ASXH, đó là: 

 Thứ nhất, các chính sách và chương trình phòng ngừa rủi ro. Nó là lớp trên cùng của hệ thống an sinh xã hội. Chức năng của các chính sách này là  can thiệp và bao phủ toàn dân; giúp  mọi đối tượng có  việc làm, thu nhập và có  năng lực vật chất cần thiết để đối mặt với rủi ro một cách tốt nhất. Các trụ cột cơ bản của tầng này là các chương trình và chính sách thị trường lao động tích cực như đào tạo nghề; hỗ trợ người tìm việc, tự tạo việc làm hoặc đào tạo nâng cao tay nghề cho người lao động.  Thứ hai, các chính sách và chương trình giảm thiểu rủi ro. Đây là cấu phần thứ hai, bao gồm các chiến lược giảm thiểu  rủi ro của hệ thống an sinh xã hội, có vai trò đặc biệt quan trọng. Nội dung quan trọng nhất của tầng này là các hình thức bảo hiểm, dựa trên nguyên tắc đóng - hưởng như: BHXH, BHYT, BHTN, v.v. Đây là nhóm chính sách  rất nhạy cảm, nếu cần thiết sẽ phát huy được sự tham gia tích cực của người dân, tiết kiệm nguồn lực cho nhà nước, tăng độ bao phủ của hệ thống. Ngược lại, nếu chính sách không phù hợp thì người dân sẽ không tham gia hoặc chính sách sẽ bị lợi dụng.  Thứ ba, các chính sách, chương trình nhằm khắc phục rủi ro, bao gồm các chính sách, chương trình  cứu trợ, trợ giúp xã hội. Là tầng cuối cùng của hệ thống an sinh xã hội, có chức năng bảo đảm an toàn cho các thành viên trong xã hội khi  gặp  rủi ro mà họ không thể tự mình vượt qua. như: thất nghiệp,  thiếu việc làm, người có thu nhập thấp, người già, người tàn tật, trẻ  mồ côi, người nghèo...  Ở Việt Nam, cấu trúc của hệ thống ASXH bao gồm 5 trụ cột: 

1) Bảo đảm xã hội;

2) Bảo hiểm y tế; 

3) Bảo hiểm thất nghiệp; 

4) Cứu trợ xã hội; 

5) Hỗ trợ và khuyến khích xã hội.

 Về cơ bản, năm trụ cột này  nhằm thực hiện ba chức năng chiến lược của hệ thống an sinh xã hội: phòng ngừa rủi ro, hạn chế rủi ro và hạn chế rủi ro. So với mô hình phổ biến trên thế giới, hệ thống ASXH của nước ta có một cấu phần đặc thù, đó là chính sách xã hội ưu đãi. Chính sách này nhằm thực hiện mục tiêu cao cả là tri ân sự hy sinh, công lao, đóng góp to lớn của những người có công với cách mạng, với đất nước; thực hiện trách nhiệm của nhà nước và xã hội trong việc chăm lo, bảo đảm  người có công có cuộc sống ổn định và ngày càng được cải thiện.  Kết quả thực hiện chính sách ASXH và những thách thức  đối với quá trình cải cách, hoàn thiện hệ thống ASXH ở Việt Nam 

2. Kết quả tích cực 

 Thực hiện đường lối đổi mới,  hơn 25 năm qua, công tác bảo đảm an sinh xã hội ở nước ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Hệ thống an sinh xã hội ngày càng đồng bộ, toàn diện, diện bao phủ không ngừng được mở rộng. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện. ASXH đã trở thành chỗ dựa vững chắc cho các nhóm người nghèo và  dễ bị tổn thương trong xã hội, góp phần hình thành một xã hội không có nhóm xã hội bị loại trừ, bảo đảm ASXH định hướng xã hội chủ nghĩa để phát triển đất nước.  Về mặt thể chế, trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng và Nhà nước ta đã hoạch định và triển khai nhiều chính sách an sinh xã hội quan trọng, huy động được nhiều nguồn lực của toàn xã hội để trợ giúp cho các đối tượng (người dân tộc thiểu số, người nghèo, người già cô đơn, trẻ em và các đối tượng dễ bị tổn thương) vươn lên trong cuộc sống. Các chính sách và giải pháp bảo đảm an sinh xã hội được triển khai đồng bộ trên cả 3 phương diện: 

(1) Giúp các đối tượng thụ hưởng tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ công cộng, nhất là về y tế, giáo dục, dạy nghề, trợ giúp pháp lý, nhà ở,...; 

(2) Hỗ trợ phát triển sản xuất thông qua các chính sách về bảo đảm thị trường, tín dụng, việc làm; 

(3) Phát triển kết cấu hạ tầng thiết yếu cho các địa phương phục vụ người dân tốt hơn.  Đến nay công tác bảo đảm an sinh xã hội đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, được nhân dân đồng tình, quốc tế đánh giá cao: số hộ nghèo giảm từ 29% (năm 2002) xuống còn 9,5% (năm 2011); chỉ số phát triển con người (HDI) tăng từ mức 0,683 (năm 2000) lên mức 0,728 (năm 2011), xếp thứ 128/187 nước, thuộc nhóm trung bình cao của thế giới; năm 2011 nước ta đã hoàn thành 6/8 nhóm Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDGs) do Liên hợp quốc đề ra cho các nước đang phát triển đến năm 2015.  Hệ thống pháp luật về an sinh xã hội ngày càng hoàn thiện hơn, đã trở thành căn cứ pháp lý quan trọng trong điều chỉnh các quan hệ xã hội.  Hệ thống bảo hiểm xã hội được quan tâm phát triển với nội dung và hình thức ngày càng phong phú, nhằm chia sẻ rủi ro và trợ giúp thiết thực cho những người tham gia. Bảo hiểm xã hội được triển khai đồng bộ với 3 loại hình: Bảo hiểm bắt buộc (BHXH và BHYT), bảo hiểm tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp. Số người tham gia bảo hiểm bắt buộc tăng nhanh, từ 4,8 triệu người (2001) lên 9,7 triệu người (2011). Sau gần 3 năm thực hiện BHXH tự nguyện, đến năm 2010 có khoảng 96.600 người tham gia. Năm 2011, có khoảng 7,6 triệu người tham gia bảo hiểm thất nghiệp. BHYT tăng nhanh, từ 13,4% dân số (năm 2000) lên khoảng 62% (năm 2010). Đặc biệt, đã có chính sách miễn phí bảo hiểm y tế  cho trẻ em dưới 6 tuổi, một số đối tượng chính sách, người nghèo, hỗ trợ mua bảo hiểm y tế cho  hộ cận nghèo... Công tác chăm sóc người có công không ngừng được cải thiện. Mức phân bổ ưu đãi năm 2010 được nhân 2,2 lần so với năm 2006. Thực hiện chính sách ưu đãi thường xuyên cho hơn 1,4 triệu người có công. Đến nay, trên 90% gia đình người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của dân cư cùng ngành. Các chính sách trợ giúp xã hội (thường xuyên và không thường xuyên) được thực hiện rộng hơn cả về quy mô và đối tượng trợ giúp với mức trợ giúp ngày càng tăng. Nguồn kinh phí hỗ trợ  thường xuyên từ ngân sách nhà nước và số đối tượng tăng nhanh, từ 113 tỷ đồng cho trên 180.000 người (năm 2001)  lên 4,5 nghìn tỷ đồng cho trên 1,6 triệu người (năm 2010). Hàng năm, nhà nước còn trợ cấp đột xuất hàng nghìn tỷ đồng và hàng chục nghìn tấn lương thực, thuốc men, chủ yếu để hỗ trợ  khắc phục thiên tai.  Các phong trào “Tương thân, tương ái”, “Quỹ vì người nghèo”, “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn” được tổ chức thường xuyên và thu hút sự hưởng ứng của nhiều lực lượng xã hội,  góp phần quan trọng nâng cao an sinh xã hội cho mọi người. , nhất là  người nghèo, vùng khó khăn. 

3.Giới hạn và thách thức 

 Cho đến nay, công tác bảo đảm an sinh xã hội ở nước ta  còn nhiều tồn tại, yếu kém: công tác giảm nghèo chưa bền vững, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa gặp nhiều khó khăn, khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn. giữa các vùng  có xu hướng nới rộng. Tình trạng thiếu việc làm ở khu vực nông thôn, khu vực đô thị hóa và thất nghiệp ở khu vực thành thị còn cao. Nguồn lực  thực hiện an sinh xã hội còn hạn chế, chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước, mức bao phủ, hỗ trợ thấp, chưa theo kịp  sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khả năng cân đối  nguồn và sử dụng  hệ thống an sinh xã hội, bao gồm BHXH, BHYT và các chế độ bảo trợ xã hội còn hạn chế, đứng trước những thách thức lớn cả trong ngắn hạn cũng như  trung hạn và dài hạn. Các quỹ bảo hiểm xã hội, đặc biệt là quỹ bảo hiểm y tế đang trong tình trạng báo động cao trong thời gian tới. Nguồn lực đầu tư cho ASXH của Nhà nước đang gặp khó khăn trong việc đáp ứng nhu cầu ASXH ngày càng tăng của dân cư, trong khi  huy động từ các nguồn khác, trong đó có cộng đồng còn hạn chế, nhất là khu vực nông thôn. Các hình thức bảo hiểm chưa đáp ứng  nhu cầu đa dạng của người dân; chất lượng các dịch vụ nhìn chung còn thấp, còn nhiều tiêu cực, phiền phức. một số chính sách an sinh xã hội còn  những bất hợp lý; Chưa có  chính sách an sinh xã hội đặc thù  phù hợp với dân cư nông thôn, dân tộc thiểu số, miền núi có điều kiện sống khó khăn. Chất lượng cung cấp các dịch vụ ASXH, nhất là dịch vụ y tế còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao mức sống của người dân. Hệ thống hành chính và việc cung ứng các dịch vụ ASXH chưa theo kịp yêu cầu phát triển,  năng lực tổ chức và quản lý  các loại hình ASXH còn hạn chế. Những hạn chế trên  đã đặt hệ thống ASXH nước ta trước nhiều thách thức to lớn, cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện chính sách để khắc phục. Bán lẻ: 

 Thứ nhất, trong quá trình đổi mới kinh tế, nhiều vấn đề cấp bách, mới mẻ về ASXH chưa được giải đáp đầy đủ cả về lý luận và thực tiễn. Hệ thống chính sách, pháp luật ASXH theo mô hình hiện hành chưa theo kịp yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và quá trình hội nhập quốc tế. 

Thứ hai, cùng với quá trình phát triển, rủi ro kinh tế và xã hội  có xu hướng gia tăng. Là một quốc gia đang phát triển với điều kiện địa - tự nhiên và địa  kinh tế đặc thù,  Việt Nam rất nhạy cảm với các rủi ro, ảnh hưởng đến sinh kế và thu nhập của người dân. Trong khi đó, do nguồn lực  hạn chế nên chúng ta chưa  chủ động được việc đảm bảo  an sinh xã hội cho đại bộ phận dân cư. 

Thứ ba, xu hướng già hóa dân số đang và sẽ đặt ra nhiều thách thức đối với hệ thống an sinh xã hội hiện tại và  tương lai, sẽ tạo áp lực lớn lên hệ thống chăm sóc sức khỏe, bảo hiểm xã hội,  dịch vụ xã hội và trợ giúp xã hội cho người cao tuổi. 

Thứ tư, mức đóng,  hưởng BHXH còn chưa hợp lý, chưa bảo đảm đời sống của người thụ hưởng. Mức độ bền vững về tài chính, sự liên kết giữa các chương trình và chính sách an sinh xã hội còn nhiều bất cập. 

Thực hiện an sinh xã hội là trọng trách của hệ thống chính trị và toàn xã  hội | Tạp chí Tuyên giáoThứ năm,  rủi ro kinh tế - xã hội ngày càng đa dạng, phức tạp và có tác động rộng lớn. Tác động tiêu cực của những “cú sốc không lường trước” từ bên ngoài như khủng hoảng kinh tế  tài chính toàn cầu, thiên tai, dịch bệnh… đến sinh kế của người dân đất nước ngày càng nhanh hơn và mạnh mẽ hơn. Trong khi đó, chúng ta  chưa có nhiều kinh nghiệm về phòng ngừa, kiểm soát rủi ro trong bối cảnh toàn cầu hóa và nguồn lực cho hoạt động phòng ngừa, kiểm soát rủi ro còn hạn chế. Thứ sáu, sự phân hóa nhanh, mạnh của kinh tế thị trường làm cho các nhóm xã hội yếu thế ngày càng  yếu thế, dễ bị tổn thương  do bị hạn chế trong khả năng cạnh tranh và phòng ngừa rủi ro trên thị trường. Các luồng dịch chuyển nghề nghiệp và dịch chuyển lao động diễn ra với cường độ ngày càng cao, tạo áp lực mạnh mẽ đối với việc bảo đảm quyền và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, quyền được hưởng lợi từ các chính sách bảo trợ xã hội của  nhóm dân cư dễ bị tổn thương.  Như vậy, các nhóm đối tượng của ASXH sẽ ngày càng đa dạng, đòi hỏi phải có một hệ thống chính sách ASXH đa tầng, đa tầng, linh hoạt, đủ sức thực hiện các mục tiêu về ASXH chính sách đến năm 2015 mà Nghị quyết Trung ương 11 đã đề ra. Đại hội Đảng: “Tạo bước tiến  rõ nét trong việc thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm tỷ lệ hộ nghèo; nâng cao sức khỏe  nhân dân... Tạo việc làm cho 8 triệu lao động... Tuổi thọ trung bình năm 2015 đạt 74 tuổi. Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 2%/năm.”(4) Để đạt được những mục tiêu này, cần phải khẩn trương xây dựng và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội lành mạnh,  thực hiện được chức năng của nó

 

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    Họ và tên không được để trống

    Số điện thoại không được để trống

    Số điện thoại không đúng định dạng

    Vấn đề cần tư vấn không được để trống

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo