Vai trò của cán bộ công chức cấp xã

1. Khái niệm và đặc điểm của công chức thành phố hiện nay là gì?  

Trên thế giới, khái niệm công chức đã xuất hiện cách đây vài thế kỷ dưới thời nhà nước tư bản... Ở Pháp, theo Từ điển Petit Larousse năm 1991, công chức được định nghĩa như sau: “Công chức nhà nước được giao một công việc thường xuyên, liên tục, thuộc phạm vi phân cấp hành chính, biên chế của một đơn vị công vụ”[41]. Ở Pháp, Điều 2, Chương II, Quy chế chung về cơ quan nhà nước năm 1994 định nghĩa: “Công chức là người được bổ nhiệm làm công việc thường xuyên chuyên trách và được xếp vào một ngạch trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước,  cơ quan ngoại ô hoặc cơ quan nhà nước”[34]. Trong những năm gần đây, một khái niệm khác được thừa nhận như sau: “Công chức bao gồm tất cả những người được Nhà nước hoặc cộng đồng lãnh thổ (đô thị, tỉnh, vùng) chỉ định làm việc thường xuyên trong một cơ quan hoặc một cơ quan tự trị, kể cả  bệnh viện, và thuộc một loại hành chính công”[31].  “Ở Vương quốc Anh, khái niệm công chức chỉ bao gồm những người lao động làm việc trong khu vực hành chính”[49].  

Những vấn đề pháp lý về cán bộ, công chức cấp xã hiện nay – thực tiễn tại  Thành phố Hồ Chí Minh | Tạp chí Quản lý nhà nước

 “Ở Hoa Kỳ, tất cả  nhân viên của bộ máy  chính phủ  được gọi chung là công chức, bao gồm những người được bổ nhiệm  chính trị (còn gọi là  chính trị gia), những người đứng đầu bộ máy độc lập và các quan chức. Quan hệ giữa nhà nước và công chức là quan hệ giữa người sử dụng lao động và người làm công, ngoài việc được điều chỉnh bởi luật hành chính, quan hệ này còn được điều chỉnh bởi hợp đồng dân sự”[49]. 

  Tại Mỹ, quốc gia này đảm bảo  chất lượng công chức ngay từ đầu  bằng cách thực hiện  minh bạch và chặt chẽ trong  tuyển dụng công chức. Quốc gia này áp dụng cả phương thức tuyển dụng tập trung và phi tập trung, cách thức tuyển dụng cũng rất đa dạng theo từng cấp chính quyền, linh hoạt để tuyển chọn được người tài, có trình độ chuyên môn toàn diện. Từ những năm 1980 trở về trước, các ứng viên thi công chức chỉ phải trải qua một kỳ thi chung (kỳ thi Quản lý nghề nghiệp) vì khi đó chính phủ Mỹ đã quan tâm đến việc phân cấp tuyển dụng, tạo điều kiện cho phép các cơ quan tổ chức tuyển dụng theo nhu cầu của cơ quan, đơn vị mình” [50]. 

 Ở nước ta, khái niệm “công chức” đã có từ lâu. Nhưng phải đến năm 1950, sau 5 năm  độc lập của nước ta, khái niệm này mới xuất hiện trong các văn bản  pháp luật của nhà nước. Văn bản đầu tiên là Sắc lệnh số 76/SL ngày 20 tháng 5 năm 1950 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quy định  chế độ công chức Việt Nam. Điều 1 của sắc lệnh viết: “Công dân Việt Nam được chính quyền nhân dân tuyển dụng giữ các chức vụ thường xuyên trong cơ quan nhà nước ở trong nước hoặc ở nước ngoài đều là công chức theo nghĩa của quy định này, trừ những trường hợp đặc biệt do chính phủ quy định.”[52] Trong quá trình phát triển của đất nước, các khái niệm trên còn có nhiều tên gọi, được thể hiện trong nhiều  loại văn bản khác nhau. Cuối những năm 80 của thế kỷ trước, khái niệm công chức gắn liền với khái niệm “công chức, viên chức”  gọi chung là “công chức, viên chức Nhà nước”[52]. Khái niệm này được biết đến rộng rãi với tất cả những người làm việc cho nhà nước, không có sự phân biệt rõ ràng. Đội ngũ này được hình thành bằng nhiều cách, có thể do bầu cử, có thể do bổ nhiệm sau khi tốt nghiệp các trường chuyên nghiệp, có thể do tuyển dụng, bổ nhiệm…”[52] 

 

 Trong thời kỳ đổi mới (sau năm 1986), trước yêu cầu khách quan của cải cách  hành chính và yêu cầu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức hành chính nhà nước, khái niệm công chức đã được đưa vào Nghị định 169/HĐBT ngày 25/5/1991 của Chính phủ. Nghị định nêu rõ: “Công dân Việt Nam được tuyển dụng, bổ nhiệm giữ chức vụ thường xuyên trong các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương, ở trong nước và nước ngoài, đã được xếp vào ngạch và hưởng lương từ ngân sách nhà nước thì gọi là công chức nhà nước”[30]. “Năm 1998, Pháp lệnh Chấp hành viên và công chức được ban hành, đây là văn bản pháp lý cao nhất của nước ta về chấp hành viên, công chức. Theo Pháp lệnh là Nghị định số 95/1998/NĐ-CP ngày 17 tháng 11 năm 1998 về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức. Nghị định  cụ thể hóa khái niệm công chức là “công dân Việt Nam, được hưởng lương và trả công từ ngân sách nhà nước, bao gồm những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc bố trí làm việc thường xuyên, được phân loại theo trình độ học vấn, ngành nghề hoạt động và được phân loại theo khối hành chính hoặc sự nghiệp;  người làm việc trong  cơ quan, đơn vị Quân đội nhân dân, Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng”[51].  

 Sau hai lần sửa đổi, năm 2003, Pháp lệnh Chấp hành viên, công chức đã đưa vào khái niệm bao hàm Chấp hành viên, công chức (quy định tại Điều 1)[32]. “Tiến bộ hơn  nhiều so với Pháp lệnh  1998 và Pháp lệnh sửa đổi  2000, Pháp lệnh Cán bộ, công chức sửa đổi  2003 đã xác định  đối tượng làm việc trong các đơn vị sự nghiệp của nhà nước  gọi là 'viên chức'. Đến lượt mình, các khái niệm trên đây bước đầu được pháp luật về chấp hành viên và pháp luật về viên chức và nhà nước ta  phân biệt rõ ràng. Theo Từ điển Tiếng Việt, công chức là “những người được tuyển dụng, bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong cơ quan nhà nước, hưởng lương do ngân sách nhà nước cấp”[42]. Luật Cán bộ, công chức được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 13 tháng 11 năm 2008. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2010.  

 Khoản 1 Điều 4 quy định về công chức tại Khoản 2 Điều 4 quy định về công chức: “Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật [20, Điều 4, Khoản 2]. 

  Từ những “Khái niệm cán bộ, công chức” ta sẽ tiếp tục tìm hiểu “Khái niệm công chức cấp xã”.Tại khoản 3, Điều 4 của Luật Cán bộ, công chức năm 2008 quy định: “Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị – xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước”. Như vậy, công chức cấp thành phố theo quy định có các chức danh sau: Trưởng Công an; chỉ huy  quân đội; Văn phòng - Thống kê; Địa chính - Xây dựng - Đô thị và môi trường (đối với quận, huyện) hoặc Địa chính - nông nghiệp - xây dựng và môi trường (đối với quận, huyện); Kế toán tài chính ; Tư pháp – Hộ tịch; Văn hóa - Xã hội [13, Mục I, Điều 3). 

 Công chức cấp xã có  trách nhiệm tham mưu, đề xuất các biện pháp tổ chức thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, đồng thời trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ cụ thể về quản lý nhà nước và cung ứng dịch vụ công thuộc lĩnh vực được pháp luật quy định  và  Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã phân công. Số lượng công chức cấp thành phố được phân bổ theo loại đơn vị hành chính cấp thành phố, cụ thể: cấp thị xã loại 1 bố trí tối đa 25 người, cấp thị xã loại 2 bố trí  23 người, cấp thị xã loại 3 bố trí tối đa 21 người. Cán bộ cấp xã do UBND cấp huyện quản lý. 

  Để phân biệt công chức cấp xã với công chức cấp xã,  cán bộ cấp xã đảm nhận các chức danh: Bí thư, Phó Bí thư cấp ủy; chủ tịch, phó chủ tịch hội đồng nhân dân; chủ tịch, phó chủ tịch ủy ban nhân dân; Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Bí thư Đoàn TNCS Hồ Chí Minh; chủ tịch hội liên hiệp phụ nữ việt nam; Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam; Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam [9, Điều 3, Khoản 1].  

 2. Vị trí, vai trò của công chức cấp thành phố hiện nay 

 Thực vậy, đội ngũ cán bộ các cấp nói chung, cán bộ cấp thành phố nói riêng có vai trò, vị trí hết sức quan trọng trong việc thực hiện chức năng tiếp sức giữa Đảng với nhân dân, giữa nhân dân với Nhà nước. Với vị trí ở cơ sở, vai trò của cán bộ cấp xã được thể hiện qua một số điểm  sau: 

 Thứ nhất, cán bộ cấp xã có vai trò quan trọng, điều này đã được Đảng và nhà nước có những chính sách bảo đảm  quyền và lợi ích trong quá trình lao động. Vì chính cán bộ thành phố có vai trò  là người trực tiếp thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà nước từ lý luận đến thực tiễn. Như vậy, người dân mới có thể tiếp cận, nắm rõ nội dung và thực hiện đúng quy định. Vì vậy, nếu đội ngũ cán bộ thị trấn được đào tạo bài bản, đủ  mạnh thì mọi chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước sẽ được  thực hiện đảm bảo và giữ vững sự ổn định, góp phần đổi mới và phát triển  địa phương. Trong những năm gần đây, việc đẩy mạnh công cuộc đổi mới và phát triển  kinh tế theo đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đã được triển khai, trong đó phần lớn thuộc về vai trò, vị trí của cán bộ cấp xã ở nước ta hiện nay.  

 Thứ hai, đội ngũ cán bộ, công chức  cấp xã có vai trò đặc biệt quan trọng trong  hoạt động tổng thể của các cơ quan Đảng, chính quyền,  đoàn thể ở nước ta hiện nay. Tầm quan trọng của đội ngũ công chức cấp xã thể hiện ở kế hoạch tổ chức triển khai, thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Họ không chỉ là  đại diện của Đảng, Nhà nước trong quản lý, điều hành trên các lĩnh vực  kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh mà còn trực tiếp chỉ đạo, tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương  của Đảng, thực hiện quyền hành pháp, tổ chức, thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Mặt khác, cán bộ thành phố cũng là những người thường xuyên giải quyết mọi mặt đời sống của nhân dân cả về vật chất và tinh thần; là người đại diện cho ý chí và lợi ích của nhân dân địa phương, đấu tranh  bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân khi bị xâm phạm. Cán bộ cấp xã là người cụ thể, trực tiếp nhất trong việc thực hiện phương châm của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Cán bộ vừa là người lãnh đạo, vừa là  đầy tớ trung thành của  dân”.  

 Thứ ba, thực tiễn cho thấy, chất lượng  đội ngũ cán bộ, công chức  có ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Cán bộ đô thị là những người thường xuyên sinh sống và hoạt động, gần gũi và tiếp xúc chặt chẽ với dân cư. Vì vậy, cán bộ cấp xã cần  được trang bị đầy đủ kiến ​​thức, kỹ năng, nghiệp vụ để chủ động, vững vàng trong quản lý, điều hành, mặt khác cán bộ cấp xã phải có đủ  tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị, đạo đức, có lối sống trong sạch, lành mạnh, trung thành với  lý tưởng của Đảng, hy sinh, gương mẫu để động viên quần chúng  tích cực tham gia  các chương trình phát triển kinh tế, xã hội của địa phương. 

 Bốn là, phát triển đội ngũ công chức cấp thành phố góp phần đánh giá  bộ máy nhà nước, tăng cường quản lý nhà nước và xã hội nói chung. Công chức cấp xã khi thi hành công vụ chỉ được làm những gì pháp luật cho phép và phải thực hiện đúng trình tự, thủ tục, thời hạn do pháp luật quy định và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quá trình  thi hành công vụ.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo