Quy mô của các chương trình chính sách tài khóa thay đổi đáng kể giữa các quốc gia. Các chương trình hỗ trợ lớn nhất dành cho các nền kinh tế lớn (như Nhật Bản, Ý, Đức và Anh), bao gồm chính sách tài khóa trong khoảng 30% đến 40% GDP (Biểu đồ 3). Ở chiều ngược lại, một số quốc gia, bao gồm Myanmar và Indonesia, đã công bố các gói cứu trợ nhỏ hơn nhưng vẫn đáng kể, tương đương khoảng 3-4% GDP. Mức độ hỗ trợ tài khóa trực tiếp cũng khác nhau giữa các nền kinh tế do sự khác biệt về cơ chế tự ổn định, không gian tài khóa trước đại dịch và quyết định của các quốc gia về việc thực hiện các biện pháp đánh thuế gián thu.
Cơ chế tự ổn định là chính sách của chính phủ tự động điều chỉnh chi tiêu và doanh thu của chính phủ để hỗ trợ hoạt động kinh tế trong các giai đoạn của chu kỳ kinh doanh. Ví dụ, trong thời kỳ suy thoái kinh tế, chi tiêu công đương nhiên tăng lên khi có nhiều người cần giúp đỡ hơn, trong khi thu nhập giảm đi do nguồn thu từ thuế có xu hướng giảm. Ở các nền kinh tế có khả năng tự ổn định mạnh mẽ, bao gồm các chương trình trợ cấp thất nghiệp và trợ cấp lương, các biện pháp tài chính bổ sung để hỗ trợ nền kinh tế sẽ ít quan trọng hơn ở các quốc gia khác. Ví dụ, các quốc gia châu Âu có xu hướng duy trì mức hỗ trợ tương đối cao dựa trên dân số của họ, nơi hỗ trợ tài chính trực tiếp sẽ ít hơn. Ngược lại, vì Hoa Kỳ có cơ chế tự ổn định yếu hơn, các nhà chức trách nên cung cấp hỗ trợ tài chính bổ sung trực tiếp ở mức cao nhất trong năm đầu tiên xảy ra đại dịch.
Tình hình tài khóa trước dịch bệnh cũng ảnh hưởng đến quy mô của chính sách tài khóa. Các nền kinh tế phát triển có nợ công và thâm hụt ngân sách thấp (như Australia, Đức, New Zealand, Singapore) thường có những phản ứng tài chính trực tiếp lớn ở giai đoạn đầu. Ở các nước đang phát triển, những hạn chế về tài chính mà chính phủ phải đối mặt, bao gồm chi phí phát hành trái phiếu mới cao, làm giảm các biện pháp hỗ trợ tài chính.
Biểu mẫu hỗ trợ thuế
Về cơ bản, các chính sách tài khóa được chia thành hai loại lớn:
(1) Các chính sách trực tiếp kích thích tổng cầu, thông qua cắt giảm thuế hoặc tăng chi tiêu, kể cả các chương trình hỗ trợ việc làm.
(2) Các hợp đồng cung cấp hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp, bao gồm các khoản vay, bảo lãnh hoặc cổ phần.
Hình 3. Các loại phản ứng ngân sách đối với cuộc khủng hoảng Covid-19 (% GDP) ở các quốc gia được chọn
Nguồn: IMF (2021)
Hình 3 cho thấy bên cạnh sự khác biệt về quy mô hỗ trợ ngân sách giữa các quốc gia, tỷ trọng của các loại hình hỗ trợ trong tổng mức hỗ trợ cũng khác nhau đáng kể. Ở một số nước như Anh, Canada, các chính sách nhằm kích thích tổng cầu chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các chương trình hỗ trợ. Ở các quốc gia khác, chẳng hạn như Ý và Đức, chính phủ chú trọng nhiều hơn đến hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp.
Các chính sách hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp cũng được thiết kế và thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Chính phủ đã giảm thuế doanh nghiệp hoặc trì hoãn các điều khoản thanh toán, cũng như hỗ trợ vốn chủ sở hữu và nợ. Những biện pháp này đã giúp các doanh nghiệp bị ảnh hưởng nặng nề bởi đợt bùng phát nhưng có tiềm năng tăng trưởng sau đại dịch để vượt qua các thách thức.
Đầu tiên, trì hoãn nộp thuế. Gần ba phần tư các nước OECD và G20 đã áp dụng hoãn thuế doanh nghiệp. Các biện pháp này thường áp dụng cho các loại thuế yêu cầu thanh toán hàng tháng hoặc hàng quý. Việc hoãn thuế thường được áp dụng đối với thuế doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế giá trị gia tăng (VAT) và các khoản đóng góp an sinh xã hội. Cũng có một số trường hợp nhất định, công ty có quyền hoãn thuế tài sản. Ở các nước mới nổi bên ngoài OECD, G-20 và các nước đang phát triển, biện pháp hỗ trợ kinh doanh phổ biến nhất cũng là hoãn thuế.
Thứ hai, tăng thời hạn nộp hồ sơ khai thuế. Hơn 28% các quốc gia OECD và G20 đã áp dụng các biện pháp giúp người nộp thuế doanh nghiệp có thêm thời gian để khai thuế. Điều này đặc biệt hữu ích khi người nộp thuế cần sự giúp đỡ từ các trung gian hoặc chuyên gia và hệ thống để khai thuế. Kéo dài thời hạn khai thuế và kế hoạch hoàn thuế linh hoạt cũng là chính sách chung được các nước áp dụng.
Thứ ba, miễn thuế. Loại giảm thuế phổ biến nhất liên quan đến các khoản đóng góp an sinh xã hội, tiếp theo là miễn thuế tài sản và thuế cố định áp dụng cho các doanh nghiệp nhỏ. Một số quốc gia cũng đã miễn thuế cho các công ty du lịch và hãng hàng không và miễn thuế nhập khẩu cho một số lĩnh vực (bao gồm vận tải hàng không, du lịch và công nghiệp). Các biện pháp miễn thuế để hỗ trợ đầu tư cũng trở nên phổ biến hơn ở các nước không thuộc OECD và G20. Ví dụ, Kenya đã giảm thuế suất doanh nghiệp cũng như thuế suất thuế thu nhập cá nhân. Trung Quốc, Jamaica, Kenya, giảm thuế suất VAT Indonesia đã miễn thuế nhập khẩu cho các công ty sản xuất trong 19 lĩnh vực ưu tiên trong 6 tháng. Nhìn chung, giảm thuế để hỗ trợ đầu tư và tiêu dùng thường được áp dụng ở các quốc gia ít bị ảnh hưởng hơn hoặc vào thời điểm khủng hoảng mới bắt đầu (ví dụ: trước khi thực hiện các biện pháp phòng ngừa và duy trì giãn cách xã hội).
Cắt giảm thuế doanh nghiệp cung cấp cứu trợ tài chính cho hoạt động kinh doanh, giúp chống lại việc giảm lợi nhuận và sa thải nhân viên, mặc dù chúng không có khả năng kích thích hoạt động kinh tế trong điều kiện khủng hoảng. . Theo cách này, cứu trợ tài chính khác với kích thích tài chính thô sơ của Keynes, nhằm mục đích kích thích phía cầu của nền kinh tế, bằng cách tăng chi tiêu của chính phủ dưới nhiều hình thức, bao gồm chuyển tiền mặt để tăng tiêu dùng.
Thứ tư, hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp. Mức độ hỗ trợ khác nhau tùy theo quốc gia, lĩnh vực và công ty, thông qua đầu tư vốn hoặc cho vay. Đầu tư vốn cổ phần ở quy mô tương đối nhỏ, thường chỉ giới hạn ở việc chính phủ cung cấp vốn cổ phần trong các công ty được coi là "quan trọng chiến lược". Mặt khác, tài trợ nợ đóng một vai trò lớn hơn nhiều. Chính sách này bao gồm các khoản vay trực tiếp và bảo lãnh khoản vay từ chính phủ cho một công ty tư nhân. Ở một số quốc gia, các biện pháp hỗ trợ được áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp. Ở các quốc gia khác, các biện pháp này được áp dụng cho các lĩnh vực cụ thể (chẳng hạn như du lịch, hàng không, v.v.) hoặc cho các công ty bị giảm thu nhập đáng kể. Cứu trợ được cấp trên cơ sở từng trường hợp cụ thể, có nghĩa là các công ty phải nộp đơn xin hỗ trợ. Ngoài ra, một số quốc gia thay vì nhắm mục tiêu vào các ngành hoặc doanh nghiệp bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi COVID-19, đang tập trung vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) hoặc doanh nghiệp độc lập do các doanh nghiệp này sẽ phải đối mặt với áp lực thanh khoản cao hơn các quốc gia khác. . Một hình thức hỗ trợ tài chính đáng được quan tâm là bảo lãnh tiền vay, thuộc nhóm hỗ trợ gián tiếp. Bản chất của các khoản vay được nhà nước bảo lãnh có nghĩa là không thể biết được tại thời điểm giải ngân những khoản vay này cuối cùng sẽ có giá trị bao nhiêu. IMF ước tính tổng hỗ trợ của chính phủ vào khoảng 11 nghìn tỷ đô la, khoảng một nửa trong số đó là dưới hình thức hỗ trợ ngoại bảng. Các nền kinh tế tiên tiến cung cấp phần lớn viện trợ dưới hình thức cho vay, với hơn một nửa tổng số viện trợ của chính phủ được cung cấp theo phương thức này. Ngược lại, hỗ trợ từ chính phủ các nước đang phát triển và thị trường mới nổi có thu nhập thấp phần lớn là hỗ trợ tài chính nội bảng. Nếu các khoản vay ngoại bảng này – với tư cách là nghĩa vụ nợ tiềm ẩn của chính phủ – không được hoàn trả, nó sẽ làm trầm trọng thêm vấn đề mất cân đối tài khóa. Tuy nhiên, trên thực tế, các ngân hàng phát hành các khoản vay có dự phòng để bù đắp tổn thất và nếu các khoản vay được hoàn trả đầy đủ, chi phí cấp vốn cuối cùng sẽ không đáng kể. Do đó, các khoản trợ cấp tài chính trong Hình 3 thể hiện giới hạn trên của chi phí cuối cùng dự kiến. Trong thực tế, chi phí cuối cùng có thể thấp hơn nhiều.
Thứ năm, hỗ trợ tiền lương cho doanh nghiệp. Nhiều quốc gia có các biện pháp để giúp các công ty giữ chân công nhân của họ. Trong số các quốc gia OECD và G20, phần lớn đã cung cấp, mở rộng hoặc mở rộng các điều kiện của các chương trình việc làm ngắn hạn. Mối quan tâm chính của cuộc khủng hoảng hiện nay là mối đe dọa mất việc làm. Nhiều quốc gia giúp các công ty giữ chân người lao động bằng cách cung cấp hoặc tạo điều kiện cho các chương trình việc làm ngắn hạn. Do đó, các chương trình này thường hỗ trợ thu nhập cho những người lao động bị giảm giờ làm hoặc bị sa thải tạm thời nhưng các công ty vẫn duy trì hợp đồng làm việc với những người lao động thời gian thực theo chương trình việc làm ngắn hạn hoặc trong thời gian tạm ngừng việc. Điều này nhằm mục đích cho phép người sử dụng lao động giữ chân những người lao động có kinh nghiệm và tài năng, đồng thời cho phép các công ty nhanh chóng tăng sản lượng khi điều kiện kinh tế được cải thiện.
Điều kiện, đối tượng thực hiện chương trình làm việc ngắn hạn có sự khác biệt đáng kể giữa các quốc gia. Ở các nước châu Âu, các chương trình này nhẹ nhàng hơn và thường cung cấp trên một tỷ lệ phần trăm tiền lương và tiền thưởng nhất định. Ở một số ít quốc gia, động cơ để giữ chân người lao động liên quan đến việc gia hạn trợ cấp thất nghiệp cho những người thất nghiệp tạm thời hoặc giảm thời gian làm việc (như ở Iceland, Hà Lan). Đối tượng mục tiêu cũng khác nhau, ở một số quốc gia, các chính sách này chủ yếu được áp dụng cho các công ty, trong khi ở các quốc gia khác, các chính sách được nhắm mục tiêu nhiều hơn, chẳng hạn như các doanh nghiệp nhỏ hoặc công ty trong các lĩnh vực bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất.
Nội dung bài viết:
Bình luận