Khác với các nước theo chế độ tam quyền phân lập, ở nước ta “Quyền lực của Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và xét xử” (Điều 2 Hiến pháp 1992).

Như vậy, mặc dù không thực hiện tam quyền phân lập nhưng bộ máy nhà nước ta cũng có ba hệ thống cơ quan thực hiện ba loại quyền lực nhà nước, đó là quyền lập pháp (ban hành luật), quyền hành pháp (hành pháp) và quyền tư pháp. quyền lực (hoạt động mua sắm). Vì vậy, tất cả các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương chỉ có thể nằm trong 3 hệ thống cơ quan nêu trên. Vậy Hội đồng nhân dân (HĐND) thuộc hệ thống nào và thực hiện quyền lập pháp hay quyền hành pháp? Đây là vấn đề cần nhận diện rõ để có thể phát huy vai trò, thực hiện đúng chức năng của mình.
Theo quy định tại Điều 119 Hiến pháp năm 1992, “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền kiểm soát của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan cấp trên. của nhà nước". Như vậy, với vị trí pháp lý do Hiến pháp quy định, HĐND phải thực hiện hai vai trò; vai trò thứ nhất là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương (quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương) và vai trò thứ hai là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và kiểm soát của nhân dân. Hai vai trò này không có sự độc lập tuyệt đối mà gắn bó với nhau thông qua hai chức năng của HĐND là chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của địa phương và chức năng giám sát.
Điều 120 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Căn cứ vào Hiến pháp, luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, Hội đồng nhân dân ra nghị quyết về các biện pháp bảo đảm việc thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa phương;…”. Mặt khác, theo Điều 1 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân không chỉ chịu trách nhiệm trước nhân dân ở địa phương mà còn chịu trách nhiệm trước cơ quan nhà nước cấp trên (bao gồm cả cơ quan hành chính cấp trên). Như vậy, HĐND có quyền quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương, nhưng những quyết định này là để kiến nghị các biện pháp thi hành pháp luật, bảo đảm việc áp dụng nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và chịu trách nhiệm trước cơ quan nhà nước cấp trên. . cho việc thực thi pháp luật. Tuy chưa có văn bản nào quy định rõ ràng nhưng căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được Hiến pháp và pháp luật hiện hành quy định về tổ chức của HĐND và UBND thì HĐND là cơ quan của hệ thống cơ quan hành pháp. (một bước trong việc thực hiện pháp luật) ở địa phương.
Câu hỏi cần thảo luận là với vị trí pháp lý là cơ quan điện lực ở địa phương của nhà nước, nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND được giới hạn ở mức độ nào? HĐND có toàn quyền quyết định mọi vấn đề không? Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 chỉ quy định phạm vi lĩnh vực (chiều rộng) mà không hạn chế các vấn đề cụ thể (chiều sâu). việc phân cấp những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân các cấp.
Hiện nay, nhiều người cho rằng cơ quan nhà nước có quyền quyết định mọi vấn đề, thực hiện mọi công việc mà pháp luật không cấm. Vì vậy, HĐND có quyền quyết định mọi vấn đề trong phạm vi địa phương (chỉ giới hạn trong phạm vi lãnh thổ). Chẳng hạn, khi xây dựng và thông qua nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Nghị quyết số 149/2010/NQ-HĐND (về quy chế chứng khoán, một số chế độ, chính sách đối với dân quân bán chuyên trách xã, thôn). ấp, tổ dân phố) thì một số ý kiến cho rằng HĐND tỉnh không có thẩm quyền quy định mức bồi thường cụ thể đối với công an nhân dân vì không có văn bản giao cho HĐND cấp đó. Tuy nhiên, nhiều người cho rằng không có văn bản nào cấm nên HĐND có quyền quy định phụ cấp đặc thù cho công an viên.
Quan điểm cho rằng cơ quan nhà nước có quyền làm những điều pháp luật không cấm là không đúng. Nguyên tắc tôn trọng pháp luật trong nhà nước pháp quyền là đối với công dân thì được làm những gì pháp luật không cấm, còn đối với cơ quan nhà nước, thừa hành viên, công chức thì không được phép chỉ làm những gì họ làm. .được pháp luật cho phép (cung cấp). Mỗi cơ quan nhà nước được tổ chức và hoạt động để thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của văn bản quy phạm pháp luật. Mỗi cấp hành chính chỉ được thực hiện các nhiệm vụ theo sự phân cấp trong văn bản quy phạm pháp luật. Ngoài thẩm quyền chung được pháp luật quy định về tổ chức của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân phải dựa vào các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành trong các lĩnh vực (như Luật ngân sách nhà nước, Luật Du lịch, Luật Luật Khoáng sản, Pháp lệnh Phí và Lệ phí, v.v.) để thực hiện đúng thẩm quyền của mình. Các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành đều có quy định về phân cấp trách nhiệm, quyền hạn cho từng cấp, ngành, cơ quan nhà nước có liên quan trong việc tổ chức thực hiện. Khác với các nước liên bang, nước ta có một hệ thống pháp luật áp dụng thống nhất trên toàn lãnh thổ nên dù là “cơ quan quyền lực” của nhà nước ở địa phương thì các quyết định của Hội đồng nhân dân các cấp đều phải được chấp hành và trong khuôn khổ pháp luật. trong khuôn khổ pháp luật quốc gia, trong giới hạn quy định của pháp luật và các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên. Hiến pháp và pháp luật hiện hành đã trao cho Hội đồng nhân dân các cấp nhiều quyền hạn nhưng phải đảm nhận trách nhiệm đại diện cho nhân dân nên trên thực tế điều kiện con người, vật chất cho Hội đồng nhân dân các cấp chưa được bảo đảm. các cấp phát huy hiệu quả hoạt động của mình trong việc thực hiện chức năng, quyền hạn. Nhiệm vụ, quyền hạn được giao cho ba cấp Hội đồng nhân dân về cơ bản là giống nhau nên nếu Hội đồng nhân dân ba cấp ra nghị quyết về cùng một vấn đề sẽ gây lãng phí nguồn lực. Có một mâu thuẫn trong việc thực hiện vai trò của Hội đồng nhân dân, đó là nếu coi trọng vai trò đại biểu của nhân dân thì cơ cấu đại biểu Hội đồng nhân dân phải đại diện đầy đủ cho các tầng lớp nhân dân. Vì vậy, trình độ chuyên môn không đồng đều, hoạt động kiêm nhiệm phải thực hiện chức năng giám sát còn nặng tính hình thức, chất vấn hời hợt, mơ hồ.
Vì vậy, việc thực hiện vai trò cơ quan quyền lực nhà nước là không đúng với quy định của Hiến pháp và pháp luật. Vì vậy, việc xác định lại vị trí pháp lý của Hội đồng nhân dân các cấp trong hệ thống bộ máy nhà nước khi sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là cần thiết.
Nội dung bài viết:
Bình luận