Năng lực hành vi dân sự là điều kiện rất quan trọng trong quan hệ dân sự và được quy định trong hầu hết các điều kiện tham gia giao dịch dân sự. Trường hợp một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì điều này được pháp luật quy định như thế nào?![]()
Hỏi: Thưa luật sư, con trai tôi nghiện ma túy, đã cai nghiện nhiều lần tại trung tâm cai nghiện nhưng không thành công. Tôi để anh ta cai nghiện tại nhà. Tuy nhiên, bất cứ khi nào anh ta nổi cơn thịnh nộ, anh ta đã phá hủy tài sản của mình và bán những thứ có giá trị để lấy tiền mặt. Gia đình muốn làm thủ tục xác định con bị hạn chế năng lực hành vi dân sự? Xin luật sư tư vấn giúp gia đình tôi. Tôi xin chân thành cảm ơn!
Luật sư tư vấn:
Hiểu một cách đơn giản, năng lực hành vi dân sự có nghĩa là khả năng tự mình ký kết và thực hiện các hợp đồng dân sự (ví dụ: ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán, cầm cố, cho vay v.v.. chẳng hạn). Như vậy, nếu nói một người “có đầy đủ năng lực hành vi dân sự” có nghĩa là người này có thể nhận thức được mọi hành vi mà mình thực hiện, pháp luật hay các cơ quan nhà nước không cấm điều gì, do đó họ hoàn toàn có thể tự mình ký kết và thực hiện mọi hợp đồng mà pháp luật cho phép. Năng lực hành vi dân sự là điều kiện rất quan trọng trong quan hệ dân sự và được quy định trong hầu hết các điều kiện tham gia giao dịch dân sự. Vậy, trường hợp một người bị thiếu hoặc được biết là hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì pháp luật sẽ quy định như thế nào? Gia sư có cần thiết trong những trường hợp này không?1. Hạn chế năng lực hành vi dân sự được pháp luật quy định như thế nào?
Theo quy định tại Điều 24 BLDS 2015, Điều 24 về hạn chế năng lực hành vi dân sự
"thứ nhất. Trường hợp người nghiện ma túy hoặc dùng chất kích thích khác gây hủy hoại tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc cơ quan, tổ chức có liên quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người đó là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Tòa án quyết định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện.
2. Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị Tòa án hạn chế năng lực hành vi dân sự phải được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày hoặc quy định khác của pháp luật có liên quan. 3. Trong trường hợp không còn căn cứ để tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của người đó, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Như vậy, khác với người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự không phải là người có bệnh lý, bệnh tâm thần làm cho người đó không làm chủ được hành vi của mình. Người này sử dụng chất hướng thần cho bản thân và có thể gây ra những hành vi ảnh hưởng đến lợi ích của cá nhân, tổ chức khác.
Theo Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ công nhận danh mục chất ma túy và tiền chất ma túy, chất hướng thần thì chất hướng thần về cơ bản là "chất gây nghiện là chất kích thích hoặc chất tác động tâm thần, dễ gây lệ thuộc ở người sử dụng; chất hướng thần là chất kích thích, an thần kinh hoặc gây ảo giác, dùng nhiều lần có thể gây lệ thuộc ở người sử dụng. Sự khác biệt cơ bản giữa chất ma túy và chất hướng thần là "chất ma túy chỉ cần sử dụng một lần là có thể gây nghiện; tâm thần chất nhiệt đới có thể gây nghiện nếu sử dụng nhiều lần.
Chất ma tuý thường được chia thành ba nhóm là chất gây kích thích thần kinh dễ gây nghiện, chất gây ức chế thần kinh dễ gây nghiện và chất kích thích, ức chế thần kinh sử dụng nhiều lần mới gây nghiện. Cá nhân nghiện ma tuý hoặc các chất kích thích khác phải được xác định dựa trên kết quả giám định được ghi nhận theo quy định pháp luật hiện hành (Quy định hiện hành được ghi nhận tại Nghị định 94/2010/NĐ-CP ngày 9/9/2010 quy định vê tô chức cai nghiện ma tuý tại gia đình, cai nghiện ma tuý tại cộng đồng và Thông tư liên tịch số 03/2012/TTLT-BLĐTBXH-BYT- BCA của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế và Bộ công an quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 94/2010/NĐ-CP).
2. Hệ quả của việc một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
Việc tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự dẫn đến những hậu quả pháp lí nhất định, tư cách chủ thể của những người này như những người có năng lực hành vi dân sự một phần.
Căn cứ khoản 2 Điều 24 Bộ Luật dân sự 2015 hạn chế năng lực hành vi dân sự:
“Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày hoặc luật liên quan có quy định khác.”
Trong trường hợp một người đã bị Tòa án tuyên hạn chế năng lực hành vi dân sự nhưng vẫn thực hiện các giao dịch mua bán, vay nợ mà không có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật của họ, các giao dịch này sẽ bị xem là không có hiệu lực và vì vậy những người thân của họ có thể bảo toàn được tài sản cho gia đình và cho cá nhân người này. Quy định về hạn chế năng lực hành vi dân sự sẽ giảm thiệt hại về tài sản của những gia đình này. Ngoài ra, quyền lợi của cá nhân, tổ chức trong quan hệ dân sự với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự sẽ được bảo đảm.
3. Thủ tục tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
Thủ tục yêu cầu tòa án tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự được thực hiện theo thủ tục tương tự như thủ tục tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự.
Bước 1: Nộp hồ sơ yêu cầu tòa án tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
Về phần hồ sơ nộp cho Tòa án, bạn chuẩn bị những giấy tờ sau:
- Đơn yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự;
- Bản sao có chứng thực giấy tờ tùy thân của người yêu cầu và người bị yêu cầu tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự;
- Bằng chứng để chứng minh trước Tòa án rằng yêu cầu của bạn là công bằng và hợp pháp. Bước 2: Tòa án thống nhất thụ lý yêu cầu Tòa án tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Trong thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu, theo yêu cầu của người khởi kiện, Toà án có thể yêu cầu giám định tình trạng sức khoẻ, bệnh tật của người bị yêu cầu tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Đối với kết quả giải quyết vụ án dân sự, nếu đơn yêu cầu được chấp nhận thì Tòa án ra quyết định tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Khi quyết định tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, Tòa án phải xác định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và mức độ đại diện.
4. Đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
Người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự sẽ do tòa án chỉ định. Trong trường hợp một người đã bị tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự mà vẫn thực hiện các giao dịch mua bán, vay nợ mà không có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật của người đó thì các giao dịch này sẽ bị coi là vô hiệu và người thân thích của người đó sẽ được giữ lại tài sản cho gia đình, cá nhân của người này.
Đại diện là việc cá nhân hoặc pháp nhân (người đại diện) xác lập, thực hiện hành vi dân sự với danh nghĩa và vì lợi ích của thể nhân hoặc pháp nhân (được đại diện) khác.
Căn cứ Điều 136 BLDS quy định người đại diện theo pháp luật của thể nhân bao gồm:
- Cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
- Người bảo vệ của căn phòng. Người giám hộ của người có khó khăn về nhận thức, hành vi là người đại diện theo pháp luật nếu được toà án chỉ định.
– Người được Tòa án chỉ định trong trường hợp không xác định được người đại diện theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.
Người được Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
5. Phân biệt giữa hạn chế và mất năng lực hành vi dân sự
Việc hạn chế và mất năng lực hành vi dân sự dường như chỉ khác nhau về mức độ. Tuy nhiên, đây là hai khái niệm khác biệt được pháp luật quy định rõ ràng.
Thứ nhất liên quan đến cơ sở pháp lý:
- Tước năng lực hành vi dân sự được quy định tại Điều 22 BLDS.
- Hạn chế năng lực hành vi dân sự được quy định tại Điều 24 BLDS.
Thứ hai về chủ đề:
- Mất năng lực hành vi dân sự là việc người bị bệnh tâm thần hoặc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình.
- Bị hạn chế năng lực hành vi dân sự do nghiện ma tuý hoặc các chất kích thích khác dẫn đến phá hoại tài sản của gia đình. Thứ ba về người đại diện:
- Người mất năng lực hành vi dân sự được Toà án cử người đại diện cho họ. Người đại diện theo pháp luật của họ sẽ xác lập, thực hiện hành vi dân sự.
- Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự sẽ có người đại diện là người đại diện theo pháp luật để tham gia giao dịch dân sự. Khi thực hiện giao dịch dân sự phải được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày hoặc pháp luật có quy định khác có liên quan.
Nội dung bài viết:
Bình luận