1 Định nghĩa Tuyên án
Tuyên án là bước tiếp theo sau khi kết thúc quá trình tố tụng tại phiên tòa. Bản án được tuyên sau khi kết thúc phần tranh luận và phần phản biện tại phiên tòa và sau khi bước vào phần nghị án của việc hình thành bản án. Việc tuyên án liên quan đến việc đọc nguyên văn toàn bộ bản án đã được hội đồng xét xử thông qua. Điều 226 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định những người có mặt tại phòng xử án phải đứng khi tuyên án. Chủ tọa phiên tòa hoặc một thành viên khác của hội đồng xét xử đọc bản án và sau khi đọc xong có thể giải thích cụ thể hơn về việc thi hành bản án và quyền kháng cáo. Trong trường hợp bị cáo không biết tiếng Việt thì sau khi tuyên án, người phiên dịch phải đọc lại toàn bộ bản án cho bị cáo bằng tiếng mà bị cáo biết. Sau khi tuyên án, HĐXX sơ thẩm trở lại phòng xử án để tuyên án.

Tuyên bản án
1.1 Điều 267. Kết tội - Bộ luật tố tụng dân sự 2015
Hội đồng xét xử đọc Bản án trước sự chứng kiến của đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi tố vụ án. Trong trường hợp các đương sự có mặt tại phiên tòa nhưng vắng mặt khi tuyên án hoặc vắng mặt trong trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 264 của bộ luật này thì người lập bản án vẫn phải tuyên án.
Khi tuyên án, tất cả những người có mặt trong phòng xử án phải đứng dậy, trừ trường hợp đặc biệt được sự đồng ý của Chánh án phiên toà.
Chủ toạ phiên toà hoặc một thành viên khác trong hội đồng xét xử công bố bản án và có thể giải thích cụ thể hơn về việc thi hành bản án, quyền kháng cáo.
Trong trường hợp Tòa án xét xử kín theo quy định tại khoản 2 Điều 15 của Bộ luật này thì phần hình thành bản án chỉ công bố công khai phần mở đầu và phần quyết định của bản án. Trong trường hợp đương sự cần người phiên dịch thì người phiên dịch phải dịch lại cho họ toàn bộ bản án hoặc phần mở đầu, phần quyết định của bản án đã được tuyên công khai.
1.2 Ngoài ra, cần lưu ý
Khi đương sự vì bệnh tật, sức khỏe kém v.v… có thể ngồi, không phải đứng dậy. Hơn nữa, ngoài chủ tọa phiên tòa, một thành viên khác trong thành phần phiên tòa cũng có quyền đọc bản án. Quy định này nhằm giải quyết tình trạng bản án quá dài và sức khỏe của chủ tọa không tốt vào ngày tuyên án. Trường hợp đương sự không biết tiếng Việt thì sau khi tuyên án, người phiên dịch phải dịch lại. Quy định này nhằm bảo đảm sự bình đẳng về quyền lợi giữa các đương sự. Thông dịch viên là người có khả năng dịch ngay bản án sang ngôn ngữ khác. Việc dịch ngay bản án nhằm bảo đảm việc áp dụng nguyên tắc tố tụng công khai. Việc nghị án và tuyên án tại Toà án dân sự phúc thẩm cũng được tiến hành như việc nghị án và tuyên án tại Toà án dân sự sơ thẩm.
2 Hoạt động xét xử trước khi tuyên án
2.1 Khái niệm nghị án
Bản án là việc Toà án xét xử xem xét, quyết định giải quyết vụ án. Căn cứ vào kết quả xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử vào phòng nghị án để thống nhất với nhau về việc giải quyết các vấn đề của vụ án. Việc nghị án được tiến hành trên tinh thần: Việc xét xử của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ và ý kiến của nguyên đơn, nguyên đơn. bị cáo và những người có quyền, lợi ích hợp pháp khác đưa ra bản án, quyết định đúng pháp luật, có tính thuyết phục trong thời hạn do pháp luật quy định.
2.2 Điều 264. Nghị định - Bộ luật tố tụng dân sự 2015
- Sau khi tranh luận xong, Hội đồng xét xử vào phòng nghị án để thảo luận về phán quyết.
- Chỉ các thành viên trong đội hình giám khảo mới có quyền nghị án. Khi nghị án, các thành viên của Hội đồng cấp sơ thẩm phải căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa và các quy định của pháp luật, nếu vụ án thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này. bài viết này. quy định tại khoản 2, điều 4 của bộ luật này thì họ còn phải căn cứ vào tập quán, tính tương đồng của pháp luật, các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ hoặc công bằng để giải quyết các vấn đề của vụ án theo đa số về từng vấn đề. Hội thẩm nhân dân biểu quyết trước, Thẩm phán chủ toạ phiên toà biểu quyết sau cùng. Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được đưa vào hồ sơ.
- Khi nghị án phải có biên bản ghi các ý kiến đã thảo luận và quyết định của Hội đồng xét xử. Biên bản nghị án phải có chữ ký của các thành viên Hội đồng xét xử tại phòng nghị án trước khi tuyên án.
- Trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, việc nghị án cần nhiều thời gian thì Hội đồng xét xử có thể quyết định thời gian nghị án nhưng không quá 05 ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc tranh luận trước toà án. Việc thành lập phiên tòa phải thông báo cho những người có mặt tại phiên tòa và những người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa biết ngày, giờ, địa điểm tuyên án.
Trong trường hợp đã công bố việc thành lập phiên tòa mà có người tham gia tố tụng vắng mặt vào ngày, giờ, địa điểm tuyên án thì việc lập phiên tòa vẫn tiến hành việc tuyên án theo quy định của pháp luật. theo quy định tại điều 267 của bộ luật này. Việc thành lập phiên tòa phải thông báo cho những người có mặt tại phiên tòa và những người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa biết ngày, giờ, địa điểm tuyên án. Trong trường hợp đã công bố việc thành lập phiên tòa mà có người tham gia tố tụng vắng mặt vào ngày, giờ, địa điểm tuyên án thì việc lập phiên tòa vẫn tiến hành việc tuyên án theo quy định của pháp luật. theo quy định tại điều 267 của bộ luật này. Tố tụng dân sự"
Việc quy định Hội thẩm nhân dân phát biểu trước tại khoản 2 Điều này nhằm tạo điều kiện để Hội thẩm nhân dân có tiếng nói khách quan, vô tư trong vụ án, tránh tình trạng phụ thuộc vào ý kiến của Hội thẩm nhân dân. về họ. ý kiến của thẩm phán hoặc thẩm phán áp đặt ý kiến của mình đối với hội thẩm nhân dân. Quy định này còn có ý nghĩa phát huy vai trò, trách nhiệm của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động tố tụng, buộc Hội thẩm nhân dân phải dành thời gian nghiên cứu vụ án trước khi mở phiên tòa. Điều này sẽ giúp cho Hội thẩm nhân dân nắm vững nội dung vụ án và tham gia phiên tòa một cách nghiêm túc, hiệu quả. Hội đồng xét xử phải căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét, kiểm tra tại phiên tòa, kết quả tranh luận tại phiên tòa và các quy định của pháp luật. Dựa trên chứng cứ và kết quả tranh tụng, Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc đánh giá chứng cứ lần cuối để đưa ra phán quyết về vụ việc.
Căn cứ nghị án là kết quả xem xét, đánh giá chứng cứ của thủ tục hỏi và tranh luận. Để bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự và đề cao trách nhiệm của các thành viên Hội đồng xét xử trong việc giải quyết vụ án, pháp luật cũng quy định trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, cần nhiều thời gian thì đương sự Tòa án có thể ấn định thời hạn nghị án nhưng không được quá 05 ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc việc tranh tụng tại phiên tòa. Năm ngày làm việc là thời hạn tối đa đối với những vụ án cần nhiều thời gian thảo luận và lập bản án. Đối với những vụ án đơn giản thì thời gian nghị án và ghi bản án do Hội đồng xét xử quyết định.
Các thành viên của bồi thẩm đoàn xét xử phải thương lượng để đi đến quyết định về toàn bộ vụ án. Các thành viên Ban giám khảo phải thảo luận và biểu quyết cho từng câu hỏi, sau đó mới chuyển sang câu hỏi khác. Không nên thảo luận tất cả các vấn đề cùng một lúc rồi biểu quyết. Việc thảo luận từng câu hỏi sẽ giúp Hội đồng xét xử thảo luận thấu đáo từng nội dung của vụ án, giải quyết dứt điểm từng câu hỏi của vụ án. Khi nghị án, nếu xét thấy chưa xem xét các tình tiết của vụ án, việc xét hỏi chưa đầy đủ hoặc phải xem xét thêm chứng cứ thì Hội đồng xét xử quyết định tiếp tục xét hỏi và tranh luận. Nếu không thì Toà án ra bản án, quyết định về việc giải quyết vụ án dân sự.
Biên bản nghị án là văn bản có giá trị pháp lý, nội dung của biên bản nghị án là căn cứ để lập luận để ra bản án, quyết định về việc giải quyết vụ án. Biên bản nghị án thông thường do chủ tọa phiên họp hoặc một thành viên của tòa án do chủ tọa chỉ định lập. Căn cứ vào kết quả của thủ tục xem xét, tranh luận và nội dung biên bản nghị án, phiên tòa ra bản án hoặc quyết định giải quyết vụ án. Bản án phản ánh đầy đủ kết quả hoạt động tố tụng của những người tham gia tố tụng và hội đồng xét xử. Việc nghiên cứu, đánh giá chứng cứ của cấp sơ thẩm khi nghị án là quan trọng nhất, có tính quyết định đối với tính đúng đắn của bản án, quyết định dân sự. Nếu khi nghị án, các thành viên hội đồng xét xử xem xét, đánh giá yêu cầu, chứng cứ một cách khách quan, đầy đủ, đúng pháp luật thì sẽ nhanh chóng phát hiện và khắc phục những sai sót, vi phạm tố tụng trước đó.
2.3 Khi nào sửa chữa, hoàn thiện bản án?
Khi đã tuyên án thì không được sửa chữa, bổ sung bản án, trừ trường hợp phát hiện rõ lỗi chính tả, sai số liệu do sai sót hoặc sai sót trong tính toán.
Trường hợp cần sửa đổi, bổ sung bản án quy định tại khoản 1 Điều này thì Thẩm phán phối hợp với Hội thẩm nhân dân là thành viên của Tòa án đã ra bản án ra quyết định sửa đổi, bổ sung bản án. bổ sung bản án và chuyển ngay cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan khởi kiện,
Viện kiểm sát cùng cấp, cơ quan thi hành án dân sự nếu bản án đã được chuyển cho cơ quan thi hành án của bản án dân sự.
Trong trường hợp Thẩm phán đã xét xử vụ án này không còn giữ chức vụ Thẩm phán của Toà án đã ra bản án này thì Chánh án Toà án sửa, bổ sung bản án. Luật 93/2015/QH13 - Thủ tục hành chính: Tình trạng: Hết hiệu lực một phần:
Tiết 191. Án Lệnh
1.Sau khi tranh luận xong, Hội đồng xét xử vào phòng nghị án để thảo luận về phán quyết.
2. Chỉ các thành viên trong đội hình giám khảo mới có quyền nghị án. Khi nghị án, các thành viên của hội đồng xét xử phải giải quyết tất cả các câu hỏi trong vụ án theo đa số phiếu đối với mỗi câu hỏi.Các bồi thẩm viên nổi tiếng bỏ phiếu đầu tiên, các giám khảo bỏ phiếu cuối cùng. Trong trường hợp hội đồng điều trần bao gồm 5 thành viên, thẩm phán chủ tọa phiên điều trần bỏ phiếu cuối cùng. Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được lập biên bản.
3. Khi nghị án, Hội đồng xét xử chỉ được căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét, xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, pháp luật giải quyết và nghiên cứu, áp dụng các án lệ hành chính có liên quan ( nếu có) để quyết định các vấn đề sau:
a) Tính hợp pháp, căn cứ về hình thức, nội dung của quyết định hành chính, việc thực hiện hành vi hành chính bị khởi kiện;
b) Tính hợp pháp về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành quyết định hành chính, thực hiện hành vi hành chính;
c) Thời hiệu, thời hạn ban hành quyết định hành chính, thực hiện hành vi hành chính;
d) Mối quan hệ giữa quyết định hành chính, hành vi hành chính với quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện và những người có liên quan;
đ) Tính hợp pháp và cơ sở của các văn bản hành chính có liên quan (nếu có);
e) Vấn đề bồi thường thiệt hại và các vấn đề khác (nếu có).
4. Khi nghị án phải có biên bản ghi các ý kiến đã thảo luận và các quyết định của Hội đồng xét xử. Biên bản nghị án phải có chữ ký của các thành viên Hội đồng xét xử tại phòng nghị án trước khi tuyên án.
5. Trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, việc nghị án cần có thêm thời gian thì Hội đồng xét xử có thể quyết định gia hạn nghị án, nhưng không quá 05 ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc phần tranh luận tại phiên tòa.
Hội đồng xét xử phải thông báo cho những người có mặt tại phiên tòa và những người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa biết ngày, giờ, địa điểm giao bản án; nếu việc thành lập phiên tòa đã thông báo mà có người tham gia tố tụng vắng mặt thì phiên tòa vẫn tuyên án theo quy định tại Điều 195 của Luật này.
Nội dung bài viết:
Bình luận