Tuổi chịu trách nhiệm hình sự (TNHS) là điều kiện về chủ thể của tội phạm. Bài viết phân tích, làm rõ các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về thời hạn chịu trách nhiệm hình sự, cụ thể:
1. Quy định chung về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự
Pháp luật hình sự các nước đều phải xác định tuổi chịu trách nhiệm hình sự, từ đó xác định điều kiện để có năng lực nhận thức và điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội và thể hiện chính sách hình sự của các quốc gia.
Pháp luật hình sự nhiều nước căn cứ vào kết quả nghiên cứu tâm lý điều tra, tình hình tội phạm cũng như chính sách hình sự của mình để quy định tuổi bắt đầu chịu trách nhiệm hình sự và tuổi chịu trách nhiệm hình sự đầy đủ. Những độ tuổi này được xác định ở mỗi quốc gia và có thể không hoàn toàn giống nhau tại bất kỳ thời điểm nào ở mỗi quốc gia.
Ở Việt Nam, căn cứ vào thực tiễn phòng, chống tội phạm và tham khảo kinh nghiệm của các nước, pháp luật hình sự xác định tuổi 14 là tuổi bắt đầu có năng lực trách nhiệm hình sự và tuổi 16 là tuổi có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự.
Theo quy định tại Điều 12 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ tội phạm có quy định khác của Bộ luật này. Đây là những tội mà chủ thể của các tội này phải là người “từ đủ 18 tuổi trở lên” - Xem: Điều 145, 146, 147, 325, 329 của BLHS.
Điều 12 xác định: Người trên 14 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng.
Tội đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286 , 2 87, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật Hình sự năm 2017, sửa đổi năm 2017.
Như vậy, điều luật giới hạn phạm vi các tội cũng như phạm vi loại tội phạm mà người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự. Theo đó, ở độ tuổi này, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm được quy định tại 28 điều luật đã được xác định và phải thuộc trường hợp tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Trong 28 điều luật này có:
- 8 điều thuộc Chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người;
- 6 điều thuộc Chương các tội xâm phạm sở hữu;
- 5 tội thuộc Chương các tội phạm về ma tuý và 9 tội thuộc Chương các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng (2 tội xâm phạm an toàn giao thông; 4 tội trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thồng và 3 tội xâm phạm trật tự công cộng- Xem: Điều 12 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017).
Mọi vướng mắc pháp lý trong lĩnh vực pháp luật hình sự, Hãy gọi: 1900.6162 để được Luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến qua tổng đài điện thoại
2. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự tại Việt Nam hiện nay
Tuổi chịu trách nhiệm hình sự là một vấn đề không thể thiếu trong pháp luật hình sự của mỗi quốc gia, thể hiện quan điểm của Nhà nước về cách thức xử lý người phạm tội, vừa đảm bảo trật tự an toàn cho xã hội nhưng phải vừa đạt được mục đích bảo vệ quyền con người, đặc biệt là quyền của người chưa thành niên, quyền của trẻ em kể cả khi họ thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Theo điều 12
BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2017) quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau:
"Thứ nhất. Người trên 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ tội phạm có quy định khác trong Bộ luật này. 2. Người trên 14 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người, tội cố ý gây thương tích cho sức khỏe của người khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội hiếp dâm người trên 13 tuổi trừ trường hợp đủ 16 tuổi, tội trộm cắp tài sản và tội cưỡng đoạt tài sản; về tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các tội sau đây: …”
Theo quy định tại khoản 3. Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 12 như sau:
“2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 2 5. 1, 252, 265, 266, 286, 290, 299 của Bộ luật này. Khoản 2 Điều 12 liệt kê cụ thể các tội phạm mà người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự nhằm đảm bảo tính minh bạch, nhân đạo trong việc xử lý đối tượng này theo tinh thần của Hiến pháp 2013 và Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em. Theo đó, người đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng đối với 28 tội phạm quy định tại khoản 2 Điều 12.
Đối với người từ đủ 16 tuổi trở lên, BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định người này phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. Như vậy, theo quy định của BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì sẽ có những tội phạm mà người từ đủ 16 tuổi trở lên không phải chịu trách nhiệm hình sự. Cụ thể hơn, các Điều 145, 146, 147 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định cụ thể 3 tội danh, theo đó, chủ thể phải là người đủ 18 tuổi và chưa đủ 16 tuổi: Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người đủ 13 tuổi hoặc chưa đủ 16 tuổi (Điều 145); tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (điều 146); tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147). => Kết luận: Vấn đề độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự hiện đang là vấn đề được tranh luận rộng rãi trên thế giới. Đối với những người dưới 16 tuổi - giới hạn tuổi tối thiểu chịu trách nhiệm hình sự đối với trẻ em là cần thiết trong bối cảnh tuyên án. Vì trẻ em không phải là “người lớn thu nhỏ” nên trẻ em không thể phải chịu trách nhiệm hình sự về những gì chúng đã làm khi trưởng thành, thậm chí không thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Các quy định về các biện pháp truy cứu trách nhiệm hình sự đối với trẻ em trước hết phải phục vụ mục đích giáo dục và trong chừng mực nào đó phải luôn bảo đảm lợi ích tốt nhất của trẻ em.3. Trách nhiệm hình sự là gì?
Dưới góc độ khoa học pháp lý, trách nhiệm hình sự có những đặc điểm cơ bản sau:
a. Trách nhiệm hình sự là “hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm dẫn đến việc người thực hiện tội phạm phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước”.
b. Trách nhiệm hình sự là một loại trách nhiệm pháp lý. Là trách nhiệm của một người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong bộ luật hình sự và gây hậu quả xấu do Toà án quy định tuỳ theo tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi mà người đó thực hiện.
so với Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng một hoặc một số biện pháp cưỡng chế của Nhà nước đối với tác giả thực hiện tội phạm do luật hình sự quy định.
d. Trách nhiệm hình sự là một loại trách nhiệm pháp lý, bao gồm nghĩa vụ chịu sự tác động của tố tụng hình sự, bị kết án, chịu các biện pháp cưỡng chế trách nhiệm hình sự (hình phạt, biện pháp tư pháp) và phải có tiền án.
4. Trách nhiệm hình sự của người đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi
Theo quy định của pháp luật hình sự hiện hành, độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự là đủ 14 tuổi trở lên. quy định tại Điều 12 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017).
Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội hiếp dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản. về tội phạm rất nghiêm trọng, kể cả tội phạm nghiêm trọng quy định tại một trong các điều sau đây:
(a) Điều 143 (tội hiếp dâm); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi);
b) Điều 170 (tội chiếm đoạt tài sản); mục 171 (tội trộm cắp); mục 173 (tội trộm cắp tài sản); mục 178 (cố ý hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản);
c) Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); mục 252 (tội chiếm đoạt chất ma tuý);
đ) Điều 265 (tội tổ chức đua xe trái phép); Điều 266 (tội mua bán trái phép);
đ) Điều 285 (Tội làm, tiếp thị, mua bán hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm vào mục đích bất hợp pháp). Điều 286 (tội phát tán chương trình máy tính gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử). Điều 287 (tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử). Điều 289 (tội xâm nhập trái phép mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác). điều 290 (tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản);
đ) Điều 299 (tội khủng bố); điều 303 (tội phá hủy công trình, công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia); Điều 304 (tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự).
5. Căn cứ trách nhiệm hình sự
Căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 2 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017).
"Đầu tiên. Chỉ những người phạm tội theo quy định của BLHS mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
2. Chỉ người nào thực hiện hành vi phạm tội quy định tại Điều 76 của Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
Quy định tại Điều 2 có ý nghĩa hết sức quan trọng, bởi vì chỉ khi người thực hiện hành vi có đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm được xác định thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Các quy định này góp phần bảo đảm nguyên tắc pháp chế của pháp luật hình sự, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
5.1 Khách quan
Một người chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Hành vi là cách ứng xử của một người đối với thế giới khách quan thể hiện qua hành động hoặc không hành động. Trách nhiệm hình sự chỉ phát sinh trong trường hợp có hành vi phạm tội. Hành vi đó có thể gây tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại cho xã hội.
5.2 Chủ quan
Cơ sở của trách nhiệm hình sự dựa trên “lỗi” của người phạm tội khi người đó thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Lỗi xuất phát từ quan điểm chủ quan của người phạm tội.
5.3 Khách quan
Khi phạm tội, người phạm tội phải xâm hại đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Đây là dấu hiệu bắt buộc để xác định có phạm tội hay không. Ngoài ra, còn có các dấu hiệu không bắt buộc như: chủ thể của tội phạm, người bị hại.
5.4 Về chủ thể
Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự, tức là khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thì có khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình. Người này phải đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự quy định tại điều 12 BLHS.
Nội dung bài viết:
Bình luận