Tổn thất tài sản là gì? Quy định của pháp luật dân sự về đòi tài sản? Quy định của pháp luật về đòi tài sản như thế nào? Khái quát chung về tranh chấp nhà đất? Nguyên đơn trong tranh chấp nhà đất? Nghĩa vụ chịu án phí khi khởi kiện đòi tài sản ?

1. Đòi tài sản là gì?
Kiện tài sản là một cách để bảo vệ quyền tài sản. Trong thực tế hiện nay, việc xâm phạm quyền sở hữu diễn ra dưới nhiều hình thức, dưới nhiều hình thức khác nhau. Do đó, pháp luật đã quy định các biện pháp bảo vệ quyền tài sản, cụ thể tại Điều 255 Bộ luật Dân sự 2015, theo đó:
"Các biện pháp bảo vệ tài sản"
Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu Toà án, cơ quan, tổ chức khác có thẩm quyền buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, chiếm hữu phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở chủ sở hữu. việc thực hiện quyền tài sản, quyền chiếm hữu và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền bảo vệ tài sản của mình và chiếm hữu hợp pháp tài sản bằng các biện pháp do pháp luật quy định.
Ta có thể thấy chủ sở hữu có quyền thu hồi và đòi lại tài sản thuộc sở hữu của người khác. sử dụng hoặc loại bỏ mà không có lý do hợp pháp. Cũng theo Điều 225, khi chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp không thể tự mình bảo vệ quyền sở hữu nếu có sự xâm hại, họ có thể;
“…yêu cầu Tòa án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài sản” .
Hay nói cách khác, kiện đòi tài sản là một phương thức bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp, được pháp luật quy định và công nhận.
Trước hết, ta cần hiểu rõ khái niệm về phương thức bảo vệ quyền sở hữu này : Kiện đòi lại tài sản là việc chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp yêu cầu tòa án buộc người có hành vi chiếm hữu bất hợp pháp phải trả lại tài sản cho mình, được xem như một trong những phương thức bảo vệ quyền của chủ sở hữu, nhằm đảm bảo để chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp được sử dụng và khai thác công dụng của tài sản một cách bình thường.
Điều 256 Bộ luật Dân sự quy định quyền đòi lại tài sản:
“Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đối với tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản đó, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 247 của bộ luật dân sự”…
Như vậy chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp, bằng nhiều cách thức, có quyền yêu cầu người đang nắm giữ tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản đó trong trường hợp người đó đang thực tế chiếm hữu, sử dụng, được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật. Tài sản trong trường hợp này, ta có thể hiểu là vật bị chiếm hữu không có căn cứ pháp luật là vật đang bị bị đơn chiếm giữ bất hợp pháp, đã rời khỏi chủ sở hữu, người chiếm giữ hợp pháp mà nằm ngoài ý chí của người này. Như vậy, chúng ta có thể xác định đối tượng của kiện tài sản là tài sản bị chiếm giữ trái pháp luật. Tùy theo từng loại hàng hóa khác nhau mà thời hiệu khởi kiện có thể khác nhau theo quy định của pháp luật, là thời hạn mà:
“Chủ thể có quyền khởi kiện hoặc khởi kiện đến Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm…” (Khoản 3 Điều 155 BLDS 2015).
Hết thời hiệu này, chủ sở hữu hoặc người được lợi không còn quyền khởi kiện về tài sản. Pháp luật dân sự có quy định về thời hiệu khởi kiện đối với từng trường hợp cụ thể. Đối với yêu cầu về tài sản, Điều 256 quy định người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu, trừ trường hợp: “Quy định tại khoản 1 Điều 247” - tức là xác lập quyền tài sản theo thời hiệu. theo đúng quy định của pháp luật. Khi quyền sở hữu hợp pháp đã được xác lập có nghĩa là người đang chiếm hữu tài sản đã trở thành chủ sở hữu hợp pháp của tài sản và không phải trả lại tài sản nếu chủ sở hữu trước có yêu cầu.
2. Quy định của pháp luật dân sự về đòi tài sản:
Tóm tắt các vấn đề:
Thưa luật sư! Cho em hỏi em có anh trai không ạ. Hiện tại anh làm ăn thất bại, nợ rất nhiều người, tài sản của anh tôi đã thế chấp và cầm cố ở ngân hàng. Ngoài ra, mười người nợ trên 1,5 tỷ thì chín người kia không kiện mà bảo tôi làm ăn sẽ trả từ từ, trong khi một người kiện ra tòa và anh tôi nợ gần 300 triệu. Vậy tôi xin hỏi anh tôi không trả được nợ cho người này thì anh tôi có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?. Nếu thỏa thuận tại tòa thì hàng tháng anh tôi có phải trả tiền cho người này và chín người kia không? Nhưng bây giờ thu nhập của anh tôi khoảng 5 triệu, anh có hai con nhỏ, một đứa 6 tuổi và một đứa 8 tuổi, vợ anh ở nhà nội trợ. Chi phí sinh hoạt, học hành, gia đình tiêu hết khoảng 4 triệu, còn dư 1 triệu. Anh tôi có thể chia nhỏ và trả 1 triệu để trả cho 10 người này được không? Xin cảm ơn Luật sư!
Tư vấn pháp lý
Trường hợp của anh trai bạn chưa rõ về hành vi của anh trai bạn nên chúng tôi xin tách thành hai vụ án: khởi kiện dân sự và khởi kiện hình sự. _ Đối với việc khởi kiện dân sự trong trường hợp chỉ là một nghiệp vụ dân sự đơn giản là vay tiền dưới hình thức hợp đồng vay cầm cố tài sản. Nếu muốn đòi số tiền còn nợ mà bên vay chưa trả thì sẽ khởi kiện ra tòa. Vì vậy, giả sử trong trường hợp của anh trai bạn, nếu anh ấy chỉ giao kết hợp đồng với các chủ nợ trong khuôn khổ hợp đồng thế chấp thông thường thì chủ nợ chỉ có thể khởi kiện dân sự, tức là khởi kiện chủ nợ bất động sản nhưng không liên quan đến yếu tố tội phạm trong trường hợp này.
Ngoài ra, đối với vụ án dân sự mà Tòa án đã thụ lý, nếu anh trai bạn thỏa thuận được với các chủ nợ khác về việc trả tiền hàng tháng thì Tòa án sẽ chấp nhận thỏa thuận của các bên trong vụ án dân sự. . Vì nguyên tắc của bên dân sự là Nhà nước tôn trọng sự thỏa thuận của các bên. _ Việc đòi nợ cũng có thể giải quyết theo hướng hình sự bằng việc tố giác tội phạm. Tùy từng trường hợp, nếu đủ căn cứ xác định tội phạm thì bên vay thực hiện hành vi đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại Điều 174 BLHS hoặc tội "vi phạm lòng tin". chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điều 175 BLHS 2015.
Và cơ quan điều tra chỉ khởi tố vụ án khi xét thấy trường hợp bên vay có hành vi gian dối ngay từ khi lập nghiệp vụ hoặc lạm dụng tín nhiệm để vay tài sản hoặc vay có tài sản hoặc vay có tài sản rồi tẩu tán, bỏ trốn... nhằm chiếm đoạt tài sản hoặc sử dụng tiền vay vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến mất khả năng thanh toán, có tài sản nhưng có tình không trả.
Nếu anh trai bạn thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm thì anh trai bạn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Vì đây là những hành vi nguy hiểm cho xã hội nên dù có sự thỏa thuận thì hành vi trái pháp luật của anh trai bạn vẫn bị cơ quan điều tra khởi tố theo pháp luật. 3. Quy định của pháp luật về phương thức đòi tài sản:
Kiện đòi đất là việc chủ sở hữu, người chiếm hữu khởi kiện yêu cầu Toà án, cơ quan có thẩm quyền buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu phải trả lại tài sản cho mình. Mục đích của phương thức truy nã này là chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp đòi lại tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của mình. Điều kiện chung để thực hiện phương thức khởi kiện này được quy định cụ thể như sau:
– Nguyên đơn (nguyên đơn): Phải là chủ sở hữu, chiếm hữu hợp pháp tài sản đó và phải chứng minh được mình là chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp khi có yêu cầu.
– Người bị kiện (bị đơn): Phải là người thực sự sở hữu tài sản mà không có căn cứ pháp luật là không trung thực. Điều này rất quan trọng vì nhiều trường hợp chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp phát hiện ra người chiêm hữu tài sản của mình lúc trước nhưng lúc này người chiếm hữu tài sản đó đã trở thành chủ sở hữu của tài sản do xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu hoặc xác lập quyền sở hữu theo các quy định khác của pháp luật.
– Tài sản phải còn trong sự chiếm hữu của chủ thể chiếm hữu bất hợp pháp: Nếu vì một lý do nào đó khiến tài sản bị hư hỏng, thất lạc, bị tiêu hủy … thì chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp không thể áp dụng phương thức kiện này.
– Không rơi vào các trường hợp mà pháp luật quy định không phải trả lại tài sản được quy định tại các Điều 257, Điều 258 Bộ luật Dân sự(BLDS):
Theo qui định tại Điều 257 Bộ luật Dân sự thì:
“Chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản; trong trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu”.
Theo đó thì chủ sở hữu chỉ đòi lại được tài sản nếu người chiếm hữu ngay tình có được động sản đó thông qua giao dịch không có đền bù với người không có quyền định đoạt đối với tài sản hoặc trong trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp bị người khác chiếm hữu ngoài ý muốn của chủ sở hữu. Như vậy, nếu người ngay tình có được tài sản thông qua giao dịch có đền bù và tài sản đó không phải bị mất cắp, bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu thì nguyên đơn không thể khởi kiện đòi lại tài sản.
Theo quy định tại Điều 258 Bộ luật Dân sự năm 2015:
“Chủ sở hữu được đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu và bất động sản, trừ trường hợp người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa”.
Việc một người có tài sản thông qua việc mua bán đấu giá hoặc giao dịch với người đã được Nhà nước có thẩm quyền công nhận là chủ sở hữu của tài sản là trường hợp mà người ngay tình hoàn toàn không có lỗi họ sẽ được pháp luật bảo vệ. Chính vì vậy, trong trường hợp này, chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp không thể kiện đòi lại tài sản từ người chiếm hữu ngay tình mà chỉ có thể áp dụng phương thức khác để bảo vệ quyền sở hữu của mình như kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại.
– Ưu điểm: là biện pháp hiệu quả cao hơn rất nhiều so với các biện pháp dân sự khác. Khi áp dụng sẽ nhanh chóng lấy lại được tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp của mình do được đảm bảo bằng các biện pháp quyền lực nhà nước.
– Nhược điểm: tốn thời gian, chi phí cho mỗi trường hợp. Ảnh hưởng tiêu cực đến mối quan hệ giữa nguyên đơn và bị đơn. Việc bình thường hóa mối quan hệ này sau khi áp dụng phương pháp thử nghiệm thường khó thực hiện hoặc tốn nhiều thời gian.
4. Khái quát chung về Khiếu nại Bất động sản:
Kiện đòi tài sản là việc chủ sở hữu, người chiếm hữu yêu cầu Tòa án buộc người chiếm giữ trái phép tài sản phải trả lại tài sản. Yêu cầu quyền sở hữu là một cách để bảo vệ quyền của chủ sở hữu và người được chuyển nhượng. Quyền yêu cầu được quy định tại Điều 256 BLDS:
Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đối với tài sản mà mình chiếm hữu, chiếm hữu hợp pháp. khôi phục tài sản này…”.
Tuy nhiên, đối với tài sản được sở hữu ngay tình, liên tục, công khai và được xác lập quyền tài sản trong thời hiệu thì không áp dụng yêu cầu đòi đất (theo quy định tại khoản 1 điều 247 Bộ luật dân sự) [... ] hoặc các trường hợp quy định tại Điều 257 và Điều 258 thì không đòi được tài sản).
Các điều khoản và điều kiện để xác nhận quyền sở hữu có thể bao gồm:
Thứ nhất, về chủ thể có quyền yêu cầu: Là chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp tài sản đó như người thuê, người nhận tài sản, v.v. Phải chứng minh được quyền sở hữu của mình đối với tài sản hay nói cách khác là chứng minh được quyền khởi kiện của mình.
Thứ hai, người bị khởi kiện: Phải là người chiếm hữu trái pháp luật tài sản. Điều kiện này rất quan trọng vì thường xảy ra trường hợp trước đây chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp mới phát hiện ra chủ sở hữu đối với tài sản của mình, nhưng nay người chiếm hữu lại trở thành chủ sở hữu tài sản do quyền đối với tài sản được xác lập theo thời hiệu (điều 247 , BLDS 2015) hoặc do quyền hưởng lợi từ thời hiệu dân sự đã hết trong trường hợp cất giấu hoặc phát hiện gia súc, gia cầm bị thất lạc (điều 241,242,243 BLDS 2015).
Thứ ba, tài sản bị yêu cầu phải còn tồn tại, nếu vật bị yêu cầu không còn tồn tại do bị hủy hoại, mất mát thì người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật không thể tự mình trả lại tài sản cho nguyên đơn. Vì vậy, trong trường hợp này cần áp dụng biện pháp khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại
Thứ tư, trường hợp anh được quyền đòi tài sản theo quy định của pháp luật: theo quy định của pháp luật, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp chỉ có quyền đòi tài sản từ người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nếu quy định này được quy định. cho bằng pháp luật. Do đó, dù có đủ 3 điều kiện trên nhưng không thuộc trường hợp yêu cầu xác nhận quyền sở hữu thì chủ sở hữu, người hưởng dụng chỉ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại.
5. Nguyên đơn tranh chấp nhà đất:
Theo quy định của pháp luật, quyền chiếm hữu, chiếm hữu hợp pháp của thể nhân, pháp nhân và các chủ thể khác được pháp luật công nhận và bảo vệ. Như vậy, Điều 256 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật về tài sản mà mình chiếm hữu, quyền chiếm hữu. tài sản này”.
Theo quy định này thì chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp là người có quyền khởi kiện đòi tài sản từ người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật.
Chủ sở hữu là người nắm trong tay, nắm giữ, quản lý tài sản được xác lập theo căn cứ pháp luật và có toàn quyền sở hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản đó. Chủ sở hữu là người sở hữu tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của mình và để xác định một tài sản nào đó có phải là tài sản của chủ thể nhất định hay không thì căn cứ vào việc xác lập quyền sở hữu do pháp luật quy định (theo Điều 170 BLDS 2015).
Chủ sở hữu chỉ có quyền chiếm hữu tài sản nếu tài sản đó được xác lập trên những căn cứ do pháp luật quy định. Tuy nhiên, trên thực tế không phải chủ sở hữu nào cũng có quyền sở hữu đối với một số loại tài sản nhất định, có những tài sản pháp lý chỉ có một số chủ thể mới có quyền sở hữu. chỉ những chủ thể này mới có quyền chiếm hữu tài sản đó và có những loại tài sản, chủ thể phải đáp ứng những điều kiện nhất định thì mới được coi là chủ sở hữu, chủ sở hữu phải tuân theo những điều kiện này.
Người chiếm hữu hợp pháp là người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản hoặc người được chuyển giao quyền chiếm hữu bằng chứng thư dân sự theo ý chí của chủ sở hữu. Các chủ thể chỉ có thể khởi kiện dựa trên quyền sở hữu và quyền chiếm hữu hợp pháp của mình. Tức là chủ thể không có quyền yêu cầu tòa án xử thu hồi tài sản mà theo quy định của pháp luật chủ thể không có quyền xác lập quyền sở hữu. Người khởi kiện là người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác như các đương sự khác, nhưng sự tham gia của họ chủ động hơn vì họ là người yêu cầu tòa án can thiệp để bảo vệ lợi ích hợp pháp của chính họ. quyền và lợi ích hoặc của những người khác mà họ đại diện. Khởi kiện của họ là cơ sở để khởi kiện vụ án dân sự tại tòa án, khi xác định tư cách người khởi kiện cần lưu ý người có lợi ích bị hại (nguyên đơn) không phải lúc nào cũng là người khởi kiện.
6. Nghĩa vụ chịu án phí khi khởi kiện đòi tài sản:
Tóm tắt các vấn đề:
Xin luật sư tư vấn: Tôi cho một đồng nghiệp vay 18 triệu đồng từ năm 2014 đến nay nhiều lần đòi không trả. Nay tôi khởi kiện ra tòa đòi lại khoản vay thì tôi có phải chịu án phí không?. Xin chân thành cảm ơn luật sư !?
Luật sư tư vấn:
Theo quy định tại Điều 146 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí, lệ phí được quy định như sau:
"thứ nhất. Nguyên đơn, bị đơn có yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập trong vụ án dân sự nộp tiền tạm ứng án phí, người kháng cáo theo thủ tục. Tòa án cấp phúc thẩm nộp tiền tạm ứng án phí kháng cáo về tiền tạm ứng án phí, trừ trường hợp được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí.
2. Người nộp đơn yêu cầu Toà án giải quyết vụ việc dân sự phải nộp tiền tạm ứng án phí giải quyết vụ án dân sự, trừ trường hợp được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí. Đối với yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thuận tình nuôi con, chia tài sản khi ly hôn thì vợ, chồng có thể thỏa thuận về việc nộp tiền tạm ứng lệ phí, trừ trường hợp được miễn hoặc không bắt buộc. trả một số tiền tạm thời. nộp lệ phí theo quy định của pháp luật. Nếu vợ chồng không thỏa thuận về việc ai trả tiền tạm ứng phí, thì mỗi người phải trả một nửa số tiền tạm ứng phí.
Như vậy, với tư cách là nguyên đơn, bạn sẽ phải nộp tiền tạm ứng án phí, trừ trường hợp bạn được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí, lệ phí.
Theo khoản 4 Điều 25 Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 quy định về nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm như sau:
“Người được yêu cầu nộp tiền tạm ứng án phí trong vụ án dân sự vô hiệu thì phải nộp tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm bằng mức mức án phí dân sự sơ thẩm; trong vụ án dân sự mà mức tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm bằng 50% mức án phí dân sự sơ thẩm do Tòa án dự tính căn cứ vào giá trị phần tài sản tranh chấp mà đương sự yêu cầu giải quyết. .
Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 và Điều 27 Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 quy định về nghĩa vụ chịu án phí sơ thẩm như sau:
“Thứ nhất, đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu của mình không được Tòa án chấp nhận.
2. Bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm nếu toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận.
3. Nguyên đơn phải chịu mọi án phí dân sự sơ thẩm trong trường hợp toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn không được Tòa án chấp nhận.
4. Người yêu cầu phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với phần yêu cầu không được Toà án chấp nhận. Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với phần mà nguyên đơn yêu cầu đối với bị đơn được Toà án chấp nhận.
5. Bị đơn có yêu cầu phản tố phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với phần yêu cầu phản tố không được Tòa án chấp nhận. Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo phần yêu cầu phản tố của bị đơn được Toà án chấp nhận.
6. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với phần yêu cầu độc lập không được Tòa án chấp nhận. Người có yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo phần yêu cầu độc lập được Tòa án chấp nhận.
7. Mỗi bên đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo mức tương ứng với giá trị phần tài sản được chia, phần di sản thuộc về mình được chia trong trường hợp các bên không thể chia được. xác định một phần tài sản. phần sở hữu của mình, phần của họ trong khối tài sản chung, phần di sản mà họ được hưởng trong khối thừa kế và một trong các bên yêu cầu Tòa án giải quyết việc chia tài sản chung hoặc phần di sản này.
8. Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn, kể cả khi Tòa án chấp nhận hay bác yêu cầu của nguyên đơn.
9. Các bên trong hôn nhân và gia đình có tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng thì ngoài việc phải chịu án phí dân sự sơ thẩm quy định tại điểm a khoản 1 Điều 24 của Bộ luật này. Pháp lệnh, phải chịu án phí đối với phần tài sản có tranh chấp như trong vụ án dân sự với giá trị tương ứng với giá trị của phần tài sản mà mình được chia.
mười. Người có nghĩa vụ cấp dưỡng định kỳ theo quyết định của Tòa án phải chịu án phí dân sự sơ thẩm như trường hợp vụ án dân sự ngoài hạn ngạch.
11. Các đương sự có thể tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trong trường hợp Tòa án tiến hành hòa giải trước khi mở phiên tòa thì họ phải chịu 50% án phí theo quy định.
12. Trường hợp tại phiên tòa sơ thẩm mà các bên đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì các bên đương sự vẫn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm như đối với trường hợp khởi kiện. của trường hợp này.
13. Trường hợp một người không phải nộp hoặc được miễn nộp án phí dân sự sơ thẩm thì những người còn lại vẫn chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều này.
Như vậy, khi khởi kiện, bạn phải nộp tiền tạm ứng án phí, sau khi giải quyết tranh chấp xong, trên cơ sở quyết định của Tòa án xác định nghĩa vụ chịu án phí tư pháp của đương sự. quy định của pháp luật.
Nội dung bài viết:
Bình luận