Vấn đề tranh chấp chủ quyền biển Đông - Việt Nam

Việt Nam là một quốc gia nằm ở bờ Tây biển Đông. Đây là nơi thường nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Vậy đâu là vấn đề tranh chấp chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa với các nước láng giềng? Bài viết dưới đây sẽ làm rõ vấn đề này

1 104255 Jpg
tranh chấp chủ quyền biển Đông

Việt Nam là quốc gia nằm ven bờ Tây của Biển Đông, có bờ biển dài 3.260km, vùng biển rộng khoảng trên 1 triệu km2, với hơn 3.000 hòn đảo lớn nhỏ, cùng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm ở vị trí tiền tiêu và liền kề với vùng biển của các nước trong khu vực. Chính vì thế, xung quanh 2 quần đảo này, nhất là đối với quần đảo Trường Sa, từ lâu đã tồn tại các tranh chấp về chủ quyền giữa các bên hết sức phức tạp ( Trung Quốc, Malaysia, Philip, Brunei,Việt Nam và phần lãnh thổ Đài Loan). Căn cứ vào nguyên tắc của Luật pháp và thực tiễn quốc tế có liên quan đến quyền thụ đắc lãnh thổ, Việt Nam có chủ quyền không thể tranh cãi đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đặc biệt, căn cứ vào Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982, Việt Nam có chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán đối với các vùng biển và thềm lục địa bao hàm cả quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa được xác lập là phù hợp với Công ước, được cộng đồng quốc tế thừa nhận. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khác nhau, một số nước và vùng lãnh thổ đã tranh chấp chủ quyền lãnh thổ với Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Mặt khác, do việc giải thích và áp dụng Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982 của những nước có biển, nằm ven bờ Biển Đông khác nhua, nên đã hình hành các khu vực biển và thềm lục địa chống lấn. Từ thực tế, tại Biển Đông hiện đang tồn tại các loại tranh chấp chủ quyền biển, đảo chủ yếu:

Thực trạng tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và vị trí chiếm đóng đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.

1. Đối với quần đảo Hoàng Sa:

Trung Quốc đã tranh chấp chủ quyền lãnh thổ với Việt Nam vào đầu TK thứ XX (1990), mở đầu là sự kiện Đô Đốc Lý Chuẩn chỉ huy 3 pháo thuyền ra khu vực quần đảo Hoàng Sa, đổ bộ chớp nhoáng lên đảo Phú Lâm, sau đó phải rút lui vì sự hiện diện của quân đội viễn chinh Pháp với tư cách là lực lượng được Chính quyền Pháp, đại diện cho nhà nước Việt Nam, giao nhiệm vụ bảo vệ, quản lý quần đảo này.
Năm 1946, lợi dụng việc giải giáp quân đội Nhật Bản thua trận, chính quyền Trung Hoa Dân quốc đưa lực lượng ra chiếm đóng nhóm phía Đông quần đảo Hoàng Sa. Khi Trung Hoa Dân quốc bị đuổi ra khỏi Hoa lục, họ phải rút luôn số quân đang chiếm đóng ở quần đảo Hoàng Sa.

Năm 1956, lợi dụng tình hình quân đội Pháp phải rút khỏi Đông Dương theo quy định của Hiệp định Giơ ne vơ và trong khi chính quyền Nam Việt Nam chưa kịp tiếp quản quần đảo Hoàng Sa, CHND Trung Hoa đã đưa quân ra chiếm đóng nhóm phía Đông quần đảo Hoàng Sa.

Năm 1974, lợi dụng quân đội Việt Nam Cộng Hòa đang trên đà sụp đổ, quân đội viễn chinh Mỹ buộc phải rút khỏi miền Nam Việt Nam, CHND Trung Hoa lại huy động lực lượng quân đội ra xâm chiếm nhóm phía Tây Hoàng Sa đang do quân đội Việt Nam Cộng Hòa đóng giữ.
Mọi hành động xâm lược bằng vũ lực nói trên của CHDC Trung Hoa đều gặp phải sự chống trả quyết liệt của quân đội Việt Nam Cộng hòa và đều bị Chính phủ Việt Nam Cộng hòa, với tư cách là chủi thể trong quan hệ quốc tế, đại diện cho Nhà nước Việt Nam quản lý phần lãnh thổ miền Nam Việt Nam theo quy định của Hiệp Định Giơ-ne-vơ năm 1954, lên tiến phản đối mạnh mẽ trên mặt trận đấu tranh ngoại giao và dư luận.

2. Vì quần đảo Trường Sa

2.1. Trung Quốc:

Tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa từ những năm 1930, nó mở đầu bằng một công hàm do Đại sứ Trung Quốc tại Paris gửi Bộ Ngoại giao Pháp nói rằng "Quần đảo Nam Sa là một phần lãnh thổ của Trung Quốc đại lục.
Năm 1946, Quân đội Trung Hoa Dân Quốc xâm chiếm đảo Taiping.
Năm 1956, quân đội Đài Loan tái chiếm đảo Itu.
Năm 1988, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã huy động lực lượng đánh chiếm 6 vị trí là các bãi cạn phía tây bắc Trường Sa nhằm mục đích xây dựng, nâng cấp và biến các bãi cạn này thành các cứ điểm đóng quân, pháo đài trên biển. Năm 1995, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa huy động quân đội đánh chiếm Đá Vành Khăn, nằm ở phía đông nam quần đảo Trường Sa. Hiện nay họ đang dùng vũ lực bao vây và chiếm giữ bãi Cỏ Mây, nằm về phía đông gần Đá Vành Khăn thuộc quần đảo Trường Sa. Như vậy, tổng số bãi đá, bãi ngầm mà phía Trung Quốc cưỡng chiếm ở quần đảo Trường Sa cho đến nay là 7 vị trí. Đài Loan chiếm đảo Ba Bình, đảo lớn nhất trong quần đảo Trường Sa, và mở rộng một bãi đá ngầm, bãi Bàn Than.

2.2. Phi-líp-pin:

Tranh chấp chủ quyền với quần đảo Trường Sa bắt đầu với việc Tổng thống Quirino nói rằng quần đảo Trường Sa nên thuộc về Philippines do chúng ở gần Philippines.
Từ 1971 đến 1973, Philippines đưa quân chiếm đóng 5 đảo; năm 1977-1978 chiếm thêm hai đảo, năm 1979 ra sắc lệnh của Tổng thống Marcos ký ngày 11-6-1979 sáp nhập toàn bộ quần đảo Trường Sa thành một đơn vị hành chính duy nhất gọi là Kalayaan, thuộc lãnh thổ Phi-líp-pin. Năm 1980, Philippines chiếm thêm một đảo ở phía nam Trường Sa, đó là đảo Cống Đỏ… Đến nay, Philippines chiếm đóng 9 đảo, bãi đá thuộc quần đảo Trường Sa.

2.3. Malaysia:

Khởi đầu là sự kiện Tòa Đại sứ Mailai tại Sài Gòn ngày 3-2-1971 gửi Công hàm cho Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa nêu rõ quần đảo Trường Sa hiện thuộc Cộng hòa Morac Songhrati Mead thuộc lãnh thổ Không VNCH hay VNCH có yêu sách đối với quần đảo này? Ngày 20 tháng 4 năm 1971, chính phủ Việt Nam Cộng hòa trả lời rằng quần đảo Trường Sa thuộc lãnh thổ của Việt Nam và mọi hành vi vi phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo này đều bị coi là vi phạm luật pháp quốc tế. Tháng 12 năm 1979, chính phủ Malaysia công bố bản đồ bao gồm lãnh thổ Malaysia ở phía Nam quần đảo Trường Sa, trong đó có đảo An Bang và Thuyền Chài từng bị Quân lực Việt Nam Cộng hòa chiếm đóng.
Năm 1983-1984, quân Mã Lai chiếm 3 bãi ngầm phía nam Trường Sa là Hoa Lau, Kiệu Ngựa, Kỳ Vân. Năm 1988, họ chiếm hai bãi đá ngầm khác là Én Đất và Thăm Dò. Hiện Mã Lai chiếm giữ 5 đảo, đá và bãi cạn ở quần đảo Trường Sa.

2.4. Bru-nây:

Dù được coi là một bên trong tranh chấp liên quan đến khu vực quần đảo Trường Sa, nhưng trên thực tế, Brunei không chiếm một vị trí cụ thể nào. Yêu sách của họ là ranh giới trên biển và thềm lục địa thể hiện trên bản đồ chồng lên khu vực phía nam quần đảo Trường Sa.

Hiện nay, các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến giải quyết tranh chấp trên các vùng biển nói chung và Biển Đông nói riêng ngày càng nhiều và phát triển vượt bậc về số lượng cũng như chất lượng, tạo ra nhiều khó khăn khác nhau cho các bên tranh chấp. Các văn bản pháp luật này được coi là luật chơi chung mà tất cả các quốc gia có tranh chấp phải áp dụng và tôn trọng. Tuy nhiên, trên thực tế về vấn đề Biển Đông, trong khi hầu hết các bên yêu sách dựa vào Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 để tuyên bố chủ quyền thì Trung Quốc lại đưa ra yêu sách “đường chín đoạn”. và không dựa trên luật pháp quốc tế. Như vậy, Trung Quốc tuyên bố chủ quyền với gần 80% diện tích Biển Đông và coi đây là vùng nước lịch sử của mình. Yêu sách này hiện đang gây tranh cãi và bị nhiều nước trong và ngoài khu vực phản đối gay gắt. Điều này làm cho tranh chấp Biển Đông thêm căng thẳng, phức tạp. Ngoài ra, một số văn bản pháp lý khác mà các bên liên quan đã dành nhiều thời gian và mất công nghiên cứu soạn thảo để góp phần giảm bớt căng thẳng tại Biển Đông như Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông, tiến tới là Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC)… hiện vẫn chưa đạt được sự thống nhất triệt để và chưa thực sự được triển khai trên thực tế.

Cuộc tranh chấp Biển Đông hiện vẫn đang là một “nguy cơ” gây bất ổn trong khu vực. Tranh chấp Biển Đông đã trở thành một trong những cuộc tranh chấp phức tạp bậc nhất trên thế giới. Sự phức tạp của tranh chấp Biển Đông đến từ các yêu sách phức tạp về chủ quyền của nhiều quốc gia đối với các khu vực chồng lấn, hơn thế nữa, nó không chỉ đơn thuần là tranh chấp về mặt luật pháp quốc tế về biên giới biển, lãnh thổ trên biển mà nó còn được đan xen với những lợi ích về địa – chính trị, về kiểm soát con đường vận tải biển chiến lược, và về khai thác các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là dầu mỏ. Thực tế cho thấy tranh chấp các đảo trong Biển Đông đã trở thành một trong những vấn đề an ninh quan trọng nhất trong khu vực bởi yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc sẽ có tác động rất lớn đến việc phân định các đường biên giới biển của khu vực này trong tương lai, và cũng ảnh hưởng nghiêm trọng đến chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ cũng như quyền lợi trên biển của nhiều nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam.

3. Bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý đầy đủ từ Việt Nam

Đối với việc giải quyết các tranh chấp về chủ quyền đối với lãnh thổ, luật quốc tế đã xác lập nguyên tắc xác lập chủ quyền là nguyên tắc chiếm hữu thực tế và thực thi quyền lực nhà nước một cách thực sự, liên tục và hòa bình. . Nguyên tắc này đã được các Quốc gia và các cơ quan tài phán quốc tế áp dụng để giải quyết nhiều tranh chấp chủ quyền lãnh thổ trên thế giới.

Áp dụng các nguyên tắc trên của luật pháp quốc tế vào trường hợp hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, các bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý đã cho thấy nhà nước Việt Nam thực sự chiếm giữ hai quần đảo này hàng trăm năm. Nói một cách chính xác, các nhà nước Việt Nam trong lịch sử và cho đến nay đã thực thi chủ quyền của mình ở đây ít nhất là từ thế kỷ XVII khi hai quần đảo chưa thuộc chủ quyền của bất kỳ quốc gia nào. Kể từ đó đến nay, Việt Nam liên tục xác lập và thực hiện chủ quyền một cách hòa bình đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
Những bằng chứng mà Việt Nam thu được rất phong phú, mặc dù như đã nói, do hoàn cảnh chiến tranh liên miên, nhiều tài liệu cũ của Việt Nam đã bị thất lạc hoặc thất lạc. Tuy nhiên, những tư liệu và chính sử còn lại vẫn đủ để khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Đầu tiên, các bản đồ Việt Nam thế kỷ XVII gọi hai quần đảo này là Bãi Cát Vàng và ghi là địa phận của huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Thứ hai, nhiều tài liệu cổ của Việt Nam như Toàn Tập Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư (thế kỷ 17), Phủ Biên Tạp Lục (1776), Đại Nam Thực Lục Tiền Biên và Chính Biên (1844-1848), Đại Nam Nhất Thống Chí (1865-1875),... đều nói đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là những bãi cát vàng dài hàng nghìn km ở biển Đông và Nhà nước đã cử đội Hoàng Sa ra khai thác những quần đảo này. Thứ ba, nhiều sách cũ và bản đồ cổ của nước ngoài cũng thể hiện quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Đỉnh cao của việc Việt Nam tuyên bố và xác lập chủ quyền đối với hai quần đảo diễn ra vào năm 1816 khi vua Gia Long cho quân ra quần đảo Hoàng Sa cắm cờ khẳng định chủ quyền.

Năm 1951, tại hội nghị San Francisco, có đề nghị hoàn tất bản dự thảo hòa ước đòi trao trả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc, nhưng hội nghị đã bác bỏ tuyệt đối đề nghị này với đa số 46 phiếu thuận, 3 phiếu trắng. phiếu bầu và 1 phiếu trắng. Tại hội nghị, Bộ trưởng Ngoại giao Trần Văn Hữu dẫn đầu phái đoàn Chính phủ Quốc gia Việt Nam khẳng định chủ quyền lâu đời của dân tộc Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà không bị nước nào phản đối, dè dặt. Năm 1956, Pháp chuyển giao lãnh thổ miền Nam Việt Nam cho chính phủ Việt Nam Cộng hòa và chính phủ này đã đưa quân tiếp quản và tổ chức hành chính hai quần đảo (tạo ra một xã ở mỗi quận của Việt Nam Cộng hòa lục địa), việc xây dựng bia chủ quyền và việc duy trì các trạm khí tượng.
Năm 1975, chính quyền Việt Nam Cộng hòa sụp đổ, Hải quân Quân đội Nhân dân Việt Nam làm chủ tất cả các đảo do Quân lực Việt Nam Cộng hòa kiểm soát trên Biển Đông. Nhà nước Việt Nam Thống nhất sau đó tiếp tục khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, ban hành nhiều văn bản hành chính nhà nước cũng như thành lập các Huyện đảo Trường Sa và Huyện đảo Hoàng Sa cũng như nâng cao công tác quản lý hành chính trên các quần đảo này.
Công ước Luật biển 1982 cho phép các quốc gia ven biển được hưởng lợi từ quy chế thềm lục địa để thăm dò và khai thác tài nguyên. Đó là chủ quyền độc quyền, không phụ thuộc vào các điều kiện chiếm hữu, phá hủy hoặc tuyên bố rõ ràng. Bất kỳ sự chiếm đóng tùy tiện nào của nước ngoài, dù bằng vũ lực hay không, đều là bất hợp pháp và vô hiệu. Về địa lý, đảo Tri Tôn, quần đảo Hoàng Sa chỉ cách Quảng Ngãi 135 hải lý và đảo Hoàng Sa chỉ cách đất liền Việt Nam 160 hải lý. Trên thực tế, quần đảo Hoàng Sa nằm trên thềm lục địa của Việt Nam theo quy định của Công ước Luật biển 1982. Về mặt địa chất, các nghiên cứu khoa học cho thấy quần đảo Hoàng Sa là một phần lãnh thổ của Việt Nam. . Về địa hình, đáy biển quần đảo Hoàng Sa là một cao nguyên ngập nước, nối liền vĩnh viễn với đất liền Việt Nam. Còn ở quần đảo Trường Sa, xét về địa chất và địa hình đáy biển, quần đảo Trường Sa là phần tiếp nối tự nhiên của đất liền Việt Nam từ đất liền ra biển, hơn nữa, quần đảo Tư Chính và quần đảo Trường Sa chỉ cách đất liền Việt Nam 150 200 hải lý, trên thềm lục địa Việt Nam.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo