Tổng quan về trách nhiệm bồi thường thiệt hại

1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại?

 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại vật chất là trách nhiệm bồi thường thiệt hại  vật chất thực tế tính bằng tiền do bên vi phạm nghĩa vụ gây ra, bao gồm cả tổn thất vật chất, chỉ chi phí  ngăn ngừa, hạn chế giảm thiểu thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm. 

 Người nào gây tổn hại về tinh thần cho người khác bằng việc gây tổn hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác,  ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi để cải chính công khai còn phải: Bồi thường một khoản tiền cho người bị thiệt hại. 

 Luật dân sự quy định hai loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại: trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Việc bồi thường thiệt hại phải có  đủ các điều kiện sau: có thiệt hại, có hành vi trái pháp luật, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với thiệt hại đã xảy ra, người gây  thiệt hại có thể có lỗi.  

 2. Quy định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại 

 Người gây  thiệt hại có thể là bất kỳ chủ thể nào: một cá nhân, một pháp nhân, một cơ quan nhà nước... Nhưng việc bồi thường thiệt hại phải do chính người đó cố gắng “có khả năng” bồi thường và  phải tham gia. chính nó. ngay cả khi hành vi gây  thiệt hại  không phải do  họ thực hiện. Bộ luật Dân sự quy định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân (Điều 586 Bộ luật Dân sự 2015), nhưng không quy định về năng lực bồi thường thiệt hại của các chủ thể khác. Vì vậy, các chủ thể khác được coi là có khả năng  chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Xuất phát từ năng lực chủ thể của cá nhân khi tham gia  quan hệ dân sự, Bộ luật Dân sự quy định, năng lực chịu trách nhiệm của cá nhân phụ thuộc vào mức độ năng lực hành vi, tình hình tài chính và khả năng bồi thường thiệt hại của cá nhân.  

 Người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ phải tự mình khắc phục thiệt hại do mình gây ra. Điều này xuất phát từ “năng lực của cá nhân bằng hành động của mình trong việc xác lập, thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự” (Điều 19 Bộ luật Dân sự  2015), họ có trách nhiệm pháp lý hóa lại hành vi  bằng tài sản của mình. Tuy nhiên, trong điều kiện này, nhiều người  có đầy đủ năng lực hành vi dân sự nhưng  năng lực tài sản  trên thực tế lại không có (người 18 tuổi không có  thu nhập, không có tài sản riêng để bồi thường). Như vậy, khi quyết định bồi thường cho những người này, có thể khuyến khích cha mẹ bồi thường thay cho con, nếu cha mẹ tự nguyện bồi thường thì việc tự nguyện này được ghi nhận  mà không bắt buộc cha mẹ phải bồi thường thay cho con. 

 

 Người dưới 18 tuổi là người chưa thành niên chưa có  năng lực hành vi đầy đủ. Vì vậy, chính cha mẹ là người phải sửa chữa những tổn thương do con cái gây ra. Tuy nhiên, việc sử dụng tài sản vào mục đích bồi thường như thế nào được quy định đối với từng người chưa thành niên. Đối với người dưới 15 tuổi thì cha, mẹ phải dùng tài sản của mình để bồi thường; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ mà con có tài sản riêng thì  tài sản của con sẽ bị tịch thu để bồi thường. Đối với  người từ 15 đến dưới 18 tuổi thì  ngược lại: khi lấy tài sản của con để bồi thường thì cha, mẹ có trách nhiệm hoàn thiện phần còn thiếu. 

 Người dưới 15 tuổi bị mất năng lực hành vi dân sự, gây  thiệt hại trong thời gian ở trường, bệnh viện theo chỉ đạo của nhà trường hoặc bệnh viện, trường học, bệnh viện phải bồi thường. Nếu các tổ chức  trên  không có lỗi thì cha mẹ, người giám hộ phải bồi thường. “Thời kỳ hành chính được hiểu là thời kỳ mà các cơ quan, theo quy định chuyên môn, có nghĩa vụ giáo dục, chữa bệnh nhưng chưa thực hiện được chức năng của mình do  quản lý yếu kém. Không phù hợp, người dưới 15 tuổi. gây tổn hại cho  người khác (như sắp xếp việc làm cho  học sinh học không tốt, đi dã ngoại, dã ngoại của trường, không có  biện pháp đảm bảo an toàn), bảo vệ, nhân viên bệnh viện không có biện pháp chăm sóc người bệnh tâm thần, v.v.). Nếu tổ chức, cơ quan quản lý không có lỗi thì cha, mẹ, người giám hộ phải bồi thường thiệt hại.  Người giám hộ đương nhiên, người giám hộ được chỉ định đối với những người phải có người giám hộ theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Dân sự 2015, được sử dụng tài sản của người được giám hộ để thanh toán. Tuy nhiên, nếu  chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không có nghĩa vụ lấy lại tài sản để bồi thường. Trường hợp này sẽ không có người sửa chữa thiệt hại vì phường không có khả năng bồi thường, nếu có tài sản thì họ có thể dùng tài sản của mình để bồi thường.   

 3. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại 

 Xuất phát từ đặc điểm của quan hệ tài sản được điều chỉnh bởi pháp luật dân sự  cũng như từ địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia  quan hệ dân sự,  điều kiện khách quan và chủ quan của người bị thiệt hại, nguyên nhân xác định thiệt hại, tính khả thi của quyết định bồi thường. ., Bộ luật Dân sự  quy định nguyên tắc bồi thường thiệt hại tại Điều 585. Nguyên tắc chung là thiệt hại phải được sửa chữa đầy đủ và đúng thời hạn. Việc bồi thường mọi thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây ra là nguyên tắc công bằng, hợp lý phù hợp với mục tiêu cũng như chức năng phục hồi của cơ quan pháp luật này. Bồi thường kịp thời cho người bị thiệt hại để khắc phục tình trạng tài sản của người bị thiệt hại, tạo điều kiện để họ khắc phục tình trạng tài sản của mình khi bị thiệt hại. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng khi nói đến sự mất mát về tính mạng và sức khỏe. Quyết định bồi thường kịp thời có ý nghĩa rất quan trọng đối với nạn nhân nhằm chữa lành và hạn chế thiệt hại, vì chi phí điều trị cho  bệnh nhân mắc chứng bệnh này thường vượt quá khả năng của nạn nhân. Vì vậy, việc quy định trình tự tố tụng để bảo đảm thực hiện nguyên tắc này là rất cần thiết trong Bộ luật tố tụng dân sự. 

  Tuy nhiên, để bảo đảm tính khả thi của bản án, quyết định của Tòa án, phù hợp với  điều kiện thực tế của các bên liên quan trong quan hệ bù trừ ngoài hợp đồng, khoản 2 Điều 585 Bộ luật Dân sự quy định rõ: 

 

 Người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc  lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình. 

 

tổng quan về trách nhiệm bồi thường thiệt hại

Tổng quan về trách nhiệm bồi thường thiệt hại

 

 Quy định này chỉ quy định chứ không quy định cụ thể việc giảm chất lượng mức bồi thường? Việc giải quyết  bồi thường tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh và mức độ lỗi của người bị thiệt hại, người gây  thiệt hại (vô ý nặng hay nhẹ). Tòa án phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để quyết định giảm mức bồi thường. 

  4. Ý nghĩa của việc bồi thường thiệt hại 

 Tương tự như trên, thiệt hại  quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của người gây thiệt hại nên giảm mức bồi thường. Khái niệm quá lớn không thể xác định được vì cùng một sự mất mát của một lượng không đổi đối với một cá nhân  là rất quan trọng, nhưng đối với người khác, nó không được coi là lớn. Mặt khác, cũng cần phân biệt việc giảm mức bồi thường với việc  hoãn thi hành án vì trong quá trình thi hành án, người không có  năng lực kinh tế trước mắt có thể được  hoãn thi hành án. của bản án.

 5. Việc xác định mức bồi thường  như thế nào?

 Mức bồi thường thiệt hại có thể do các bên thoả thuận hoặc do Tòa án quyết định. Tuy nhiên, mức bồi thường  đã thỏa thuận và quyết định có thể bị thay đổi nếu mức bồi thường “không còn phù hợp với thực tế”. Căn cứ điều kiện thực tế và xác định tính thỏa đáng theo yêu cầu của các bên,  cần điều chỉnh mức bồi thường (người được bồi thường tăng thu nhập, phải đóng thêm tiền khám chữa bệnh...). Khả năng tăng hoặc giảm mức bồi thường do tòa án quyết định theo yêu cầu của các bên. 

 

 

  5.1 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo Luật Dân sự là gì? 

Điều 584 Bộ luật Dân sự  2015 quy định  căn cứ về trách nhiệm bồi thường thiệt hại như sau: 

 

 - Người nào có hành vi xâm hại đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của người khác và gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp của Bộ luật này và pháp luật khác có liên quan. lên kế hoạch khác.  

 - Người gây thiệt hại không phải  bồi thường  trong trường hợp thiệt hại xảy ra do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. 

 

  - Khi tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu tài sản có trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại xảy ra quy định tại khoản 2 Điều này. 

 

 Tranh chấp về quyền sử dụng đất của gia đình bạn với anh ấy sẽ được giải quyết theo quy định của pháp luật. Luật pháp khuyến khích các cá nhân  hòa giải với nhau. Nhưng nếu không thể hòa giải được thì các bên có quyền yêu cầu Ủy ban nhân dân cấp xã hòa giải. Trường hợp hòa giải của Ủy ban nhân dân thị trấn không thành hoặc các bên không đồng ý với quyết định hòa giải của Ủy ban nhân dân thị trấn thì có quyền khởi kiện lên Tòa án cấp huyện nơi  đất thuộc địa. Điều này được quy định tại Điều 202 và 203 Luật Đất đai  2013.  

 

 

 5.2 Căn cứ  trách nhiệm bồi thường thiệt hại?  Người nào có hành vi xâm hại đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Có những quy định khác. 

 - Người gây thiệt hại không phải  bồi thường  trong trường hợp thiệt hại xảy ra do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. 

  - Khi tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại xảy ra do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên kia. được thỏa thuận  hoặc pháp luật có quy định khác.




Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo