Tổng hợp các bản án bản án 36/2018/KDTM-ST

Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng.  

Quyền tác giả: bao gồm tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; Đối tượng quyền liên quan đến quyền tác giả bao gồm cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa. Quyền sở hữu công nghiệp: bao gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý.  Quyền  giống cây trồng: Là vật liệu nhân giống và  thu hái. Ami Law Firm tổng hợp các bản án liên quan đến tranh tụng quyền sở hữu trí tuệ để các luật sư đồng nghiệp và khách hàng  nghiên cứu, tham khảo. 

 1 Sử dụng nhãn hiệu của công ty khác  

 Tóm tắt nội dung: Việc sử dụng dấu hiệu F liên quan đến hoạt động thương mại của Công ty M mà Công ty TNHH H là chủ thể, đang trong thời hạn được pháp luật bảo hộ liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp  gắn liền với tên gọi, biển hiệu, giấy tờ giao dịch, phương tiện quảng cáo thương mại, có cùng kênh tiêu thụ dịch vụ du lịch, là  dấu hiệu tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu “F” mà Công ty cổ phần H đang làm thủ tục đăng ký. Bản án số 18/2016/KDTM-ST của TAND TP Hà Nội 

 2 Sản xuất xe máy tương tự xe máy đã  đăng ký bảo hộ kiểu dáng công nghiệp 

 Tóm tắt nội dung: Viện Khoa học Sở hữu trí tuệ đã ra Kết luận giám định số KD001-17YC/KLGD ngày 13/01/2017 xác định kiểu dáng của chiếc xe máy điện do bị đơn sản xuất đã cấu thành hành vi xâm phạm . 20652. Căn cứ  khoản 1 Điều 126 Luật Sở hữu trí tuệ, hành vi của Bị đơn sản xuất và đưa ra thị trường sản phẩm xe máy điện với kiểu dáng  đã phân tích ở trên cấu thành hành vi xâm phạm quyền  kiểu dáng công nghiệp đang được bảo hộ của nguyên đơn. Hội đồng xét xử nhận thấy có đủ căn cứ xác định rằng thiết kế của chiếc xe máy điện do Bị đơn sản xuất đã vi phạm quyền bảo vệ Tiêu đề số 20652 của Nguyên đơn.  Nguyên đơn yêu cầu Luật sư bồi thường như sau: khoản chi phí hợp lý mà Nguyên đơn phải chịu từ Luật sư là 200.000.000 đồng; Các thiệt hại khác bao gồm chi phí mua xe mô hình mang đi giám định là 7.227.000 đồng, làm giấy phép Thừa phát lại là 3.960.000 đồng và  định giá tài sản trí tuệ là 6.397.500 đồng. Tổng cộng là 217.584.500 đồng, hội đồng xét xử xét thấy đây là  thiệt hại thực tế của nguyên đơn và nguyên đơn có đầy đủ hóa đơn, chứng từ chứng minh cho yêu cầu bồi thường này nên phù hợp với quy định tại khoản 4 điều 202 điều 204, Mục 205 của Đạo luật sở hữu trí tuệ có cơ sở để chấp nhận.  Bản án số 36/2018/KDTM-ST của TAND TP Hà Nội 

Bản án 36/2018//kdtm-stv

Bản án 36/2018/kdtm-stv

 3 Asanzo sử dụng nhãn hiệu Asanno vi phạm  

 Tóm tắt nội dung: Tại Văn bản số 3374/SHTT-TTKN ngày 06/5/2016, Vụ S - Bộ Khoa học và Công nghệ xác định: “Mặc dù có sự khác biệt về màu sắc nhưng các chữ cái đều là phụ âm (các chữ cái là phụ âm) thêm chữ Z ) và chữ 'A' được trình bày đủ nét nhưng sự kết hợp giữa các chữ và hình trên vẫn tạo thành một tổng thể  gây nhầm lẫn với nhãn hiệu đã được bảo hộ". Từ đó, Vụ S - Bộ Khoa học và Công nghệ nhận thấy hành vi của bị đơn đã cấu thành hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu theo Điều 129 Luật Sở hữu trí tuệ, chấp nhận  yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn chấm dứt việc sử dụng nhãn hiệu “Asanzo, pic” ( ) và bồi thường cho nguyên đơn số tiền 100.000.000 đồng theo quy định  Công ty D không  chứng minh được thiệt hại về tài sản và số lợi nhuận bị đơn  thu được  từ việc sử dụng nhãn hiệu là không rõ ràng. Lợi nhuận của Công ty Cổ phần Điện tử A Việt Nam là kết quả của nhiều yếu tố cộng hưởng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm chỉ chấp nhận mức bồi thường 100.000.000 đồng là có căn cứ, cũng phù hợp với quy định tại Điều 205 Luật sở hữu trí tuệ mà nguyên đơn đưa ra.  Bản án số 01/2019/KDTM-PT của Tòa án nhân dân cấp cao tại TP HCM 

 4 Sử dụng xe máy điện và nhãn hiệu tương tự kiểu dáng xe Piaggio và nhãn hiệu đã được bảo hộ 

 Sơ lược nội dung: Tại bản kết luận giám định: Sản phẩm xe máy điện do Bị đơn sản xuất, lưu thông đều tương ứng có hầu hết đặc điểm tạo dáng của kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ. Sản phẩm chỉ khác kiểu dáng công nghiệp ở các đặc điểm sàn xe phẳng không có sống lưng, phía trên bánh xe có hai gân mảnh chéo vào giữa, đầu chắn bùn trước cong nhọn chứ không thẳng; đèn xi nhan sau hình dạng đầu mũi tên chứ không phải hình thang ngược), các đặc điểm khác biệt trên chỉ là sự thay đổi đơn giản và không làm thay đổi đặc điểm tạo dáng của Yếm xe cũng như của cả chiếc xe. Tập hợp các đặc điểm tạo dáng cơ bản của sản phẩm xe máy điện do Bị đơn sản xuất là không khác biệt so với kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ, là bản sao của Kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ của Nguyên đơn.  

 Bản án số 01/2018/KDTM-ST của Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên 

 5 Đăng ký nhãn hiệu DESYLOIA trùng với chỉ dẫn thương mại của công ty khác đã sử dụng từ trước 

 Sơ lược nội dung: Công ty Kỹ thuật TB không chỉ ra được nguồn gốc của nhãn hiệu “DESYLOIA” do mình đăng ký và chưa có kế hoạch sử dụng nhãn hiệu đăng ký là không phù hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 14 Nghị định 63/CP ngày 24-10-1996 của Chính phủ. Trong khi đó, Công ty DN đã chứng minh nguồn gốc và việc sử dụng nhãn hiệu “De Syloia” từ nhiều năm, trước ngày Công ty kỹ thuật TB nộp đơn đăng ký nhãn hiệu. Công ty kỹ thuật TB không sử dụng nhưng lại nộp đơn đăng ký để được cấp GCNĐKNH số 116243 bảo hộ nhãn hiệu “DESYLOIA” cho các dịch vụ thuộc nhóm 43 đã dẫn đến kết quả là việc tiếp tục sử dụng dấu hiệu “HOTEL DESYLOIA” của Công ty DN bị coi là hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu. Do đó, Công ty DN cho rằng Công ty kỹ thuật TB đăng ký nhãn hiệu “DESYLOIA” là hành vi cạnh tranh không lành mạnh, nhằm chiến đoạt nhãn hiệu “DE SYLOIA” đang được sử dụng hợp pháp của Công ty DN là có căn cứ, theo quy định tại Điều 5.1.b Nghị định số 12/1999/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp 

 Bản án số 210/2018/HC-PT của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội 

 6 Sản xuất hàng hóa đạt chất lượng 70% trở lên nên truy tố tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả” là không chính xác. Phải xác định phạm tội “Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp” 

 Sơ lược nội dung: Tại Văn bản giám định: tất cả các phần trăm chỉ tiêu chất lượng so với TCCS của Bút gel mực nước A thấp nhất là 72,5%, cao nhất là 100%; đối với thước K loại dài 20cm thấp nhất là 95,5%, cao nhất là 105,9%; thước K loại dài 30cm thấp nhất là 98,3%, cao nhất là 103,5%. Như vậy so với quy định về “hàng giả” tại điểm b khoản 8 Điều 3 Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả…. được sửa đổi, bổ sung bởi nghị định số 124/2015/NĐ-CP ngày 19/11/2015 thì hàng giả là: 

 “b) Hàng hóa có ít nhất một trong các chỉ tiêu chất lượng hoặc đặc tính kỹ thuật cơ bản tạo nên giá trị sử dụng, công dụng của hàng hóa chỉ đạt mức từ 70% trở xuống so với tiêu chuẩn chất lượng hoặc quy chuẩn kỹ thuật đã đăng ký, công bố áp dụng hoặc ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa;” 

 Đối chiếu với quy định trên, thì hành vi của bị cáo Đ đủ yếu tố cấu thành tội “Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp”. 

  Bản án số 09/2019/HS-ST của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh 

 7 Nhập khẩu thuốc chữa bệnh ung thư. Phạm tội buôn lậu hay tội Sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh 

 Sơ lược nội dung: Qua xem xét chuỗi các hành vi mà các bị cáo đã thực hiện từ việc thỏa thuận mua, bán, làm đơn đặt hàng, thiết lập hồ sơ xin phép nhập khẩu lô thuốc, khâu chuẩn bị bán hàng thông qua đấu thầu, chi tiền hoa hồng trước cho các bác sỹ…cho đến khi làm thủ tục thông quan cho thấy ý chí của các bị cáo khi thực hiện tội phạm có dấu hiệu của tội “ Sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh” theo quy định tại Điều 157 Bộ luật hình sự. Việc Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo này về tội “Buôn lậu” theo quy định tại Điều 153 Bộ luật hình sự là không phản ánh đúng các tình tiết khách quan của vụ án, cũng như động cơ, mục đích phạm tội của các bị cáo.  Bản án số 567/2017/HS-PT của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh 

  8 Tranh chấp nghĩa vụ thanh toán trong Hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả và Hợp đồng sản xuất kịch bản 

 Sơ lược nội dung: Vào ngày 09/6/2015 hai bên đã ký 02 hợp đồng gồm “Hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả” và “Hợp đồng sản xuất kịch bản”. Theo nội dung của hai hợp đồng này thì nghĩa vụ của bà D là khác nhau và ghi rõ giá trị của mỗi hợp đồng là 195.000.000 đồng đã bao gồm  thuế thu nhập cá nhân. Như vậy, phải xác định đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả, bà D đã hoàn thành nghĩa vụ của mình, còn Công ty cổ phần Hãng phim V chưa thực hiện nghĩa vụ trả tiền cho bà D; Công ty Cổ phần Hãng phim V không đưa ra được chứng cứ chứng minh hai hợp đồng này là đồng nhất với nhau. Vì vậy, tòa án cấp sơ thẩm tuyên buộc Công ty Cổ phần Hãng phim V phải trả cho bà D 175.500.000 đồng, nộp thuế thu nhập cá nhân cho bà D 19.500.000 đồng và không chấp nhận việc bà D phải trả số tiền là: 246.000.000 VND bị phong tỏa. Bản án số 29/2018/KDTM-PT của TAND cấp cao tại TP.HCM 

9 Tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ đối với tác phẩm mỹ thuật ứng dụng 

 Tóm tắt nội dung: Xét về nguồn gốc của các cụm hình ảnh được trình bày trong tác phẩm của anh D là những hình ảnh đã được lưu truyền từ lâu trong  dân gian, tác giả chỉ thay đổi vài dòng và sắp xếp theo  bố cục trang và hình thức của biểu hiện để tạo ra tác phẩm của riêng bạn. Do đó,  không thể xác định được bản quyền của những hình ảnh riêng lẻ đã được lưu truyền hàng thế kỷ trong dân gian. Bản án số 213/2014/DS-ST của TAND tỉnh TB 

 10 Tranh Chấp Quyền Sở Hữu Trí Tuệ Đối Với Giải Pháp Hữu Ích 

 Tóm tắt nội dung: Đầu năm 2003, ông Thanh phát hiện ông Minh và bà Sinh đã chế tạo và  bán ra thị trường loại máy đùn gạch có trục mà ông Thanh đã được nhà nước bảo hộ độc quyền... 

 Quyết định giám đốc thẩm số 06/2015/KDTM-GĐT của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao 

 11 Tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ đối với giải pháp hữu ích Hệ thống vận chuyển xi măng 

 Tóm tắt nội dung: Đánh giá Kết luận: Bản chất kỹ thuật  hệ thống xà lan vận chuyển xi măng  của BD khác  với bản chất kỹ thuật và yêu cầu bảo hộ của Bằng độc quyền giải pháp hữu ích 622 như sau: Không có ốc vít, chỉ có 1 hệ thống máy nén khí và một hệ thống bồn chứa. Nguyên lý hoạt động của bình áp lực theo Bằng độc quyền Giải pháp hữu ích 622 là xi măng ở thể rời và không có khí nén chuyển động ngược chiều nên dễ dàng tạo ra hỗn hợp xi măng rời và  khí nén. Nguyên tắc này  là lẽ thường và  không được bao gồm trong yêu cầu bồi thường. Vì vậy, nó không thể được coi là  nội dung  so sánh. Do đó, thiết kế BD không giống với thiết kế ND. Bản án số 136/2011/KDTM-PT của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao TP.HCM 

 12 Cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến sở hữu công nghiệp. Thiệt hại được xác địn  như thế nào? 

Tóm tắt nội dung: Kết quả giám định cho thấy bị đơn  có hành vi cạnh tranh không lành mạnh về quyền sở hữu công nghiệp  với nguyên đơn. Việt Nam cũng là thành viên của Thỏa ước Madrid nên  có trách nhiệm bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với  hàng hóa  đăng ký theo thỏa ước này….  Cần  căn cứ vào quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ và các quy định khác của pháp luật để xác định  thiệt hại thực tế của nguyên đơn để buộc  bị đơn phải bồi thường theo  quy định của pháp luật... 

 Bản án giám đốc thẩm số 29/2009/DS-GĐT_HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao 

 13 Tranh chấp liên quan đến hợp đồng chuyển giao quyền sáng chế không có hợp đồng chính thức. Công nghệ, sản phẩm chưa được cấp bằng  sáng chế 

 Tóm tắt nội dung: Mặc dù ông T không thừa nhận có ký kết hợp đồng chuyển giao công nghệ với ông H nhưng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là ông Nguyễn Bá Th đã được xác định và cung cấp tài liệu chứng cứ chứng minh. : Tháng 9/2015, Mr. Đậu Chí T giám đốc công ty cổ phần thương mại M nhờ viết bài quảng cáo  sản phẩm máy tỉa cành  trên không và để chứng minh  quyền sở hữu  là  hợp đồng chuyển giao công nghệ giữa ông T và ông H nên ông (Thắng) đã viết một bài viết trên Vũ công công - kênh VTC4  ngày 09/09/2015 đăng tải.  

Mặt khác, trên đoạn băng ghi âm cuộc nói chuyện giữa MH và MT (ông T thừa nhận  là giọng nói của mình) có nội dung MT sẽ trả một lần cho ông H. Như vậy, có cơ sở xác định ông H đã chuyển giao công nghệ “kéo cắt  trụ  trên không” cho ông T. Tuy nhiên, do tài liệu thu thập được trong hồ sơ  là một hợp đồng chuyển giao công nghệ nên không có duy nhất một hợp đồng 02 trang giấy và không có quy định về số tiền chuyển giao công nghệ (theo ông T, hợp đồng có 03 trang, trong đó tại trang 02 có ghi số tiền đã thỏa thuận  nhưng ông T đã  giấu). Vì vậy, cần phải tiến hành giám định để xác định giá trị của sáng chế “Kéo cắt cành trụ  trên không” để bắt anh T thanh toán giá trị chuyển giao công nghệ cho anh H để đảm bảo  công bằng. Tuy nhiên, tòa sơ thẩm cho rằng tại thời điểm chuyển giao công nghệ, sản phẩm “Kéo cắt cành trên trụ  trên không” chưa được đăng ký, chưa được cấp bằng độc quyền sáng chế nên không có giá trị pháp lý.

 

 

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo