Tổng hợp các bản án bản án 32/2018/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TP ĐÀ NẴNG

Án lệ 32/2018/DS-ST 06/06/2018 VỀ VIỆC HOÀN TRẢ CHI PHÍ ĐÀO TẠO

Ngày 06/6/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 48/2017/TLST-DS ngày 23/6/2017 về tranh chấp hoàn trả. chi phí đào tạo, theo Bản án Quyết định số: 11/2018/QĐXXST-DS ngày 15/03/2018, giữa các bên:

- Đơn vị đăng ký: Trung tâm Phát triển Nguồn nhân lực Chất lượng cao; Địa chỉ trụ sở chính: Đường T, Quận H, TP Đà Nẵng.
Người đại diện theo pháp luật được ủy quyền của người làm đơn: Trung tâm Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là bà Nguyễn Thị Thu H, bà Đỗ Thị Hạnh C và ông Hà Đông T (Giấy ủy quyền ngày 02/01/2014). 2018).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Trung tâm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là ông Hà Đông T; Luật sư Công ty Luật D, thuộc Đoàn Luật sư TP Đà Nẵng; Địa chỉ văn phòng: Đường H, Quận H, TP Đà Nẵng.
- Bị cáo:

1. Ông Mai Đăng Trần L; Cư trú tại: Australia (Úc). 2. Ông Mai Thanh P

3. Bà Trần Thị N

Đồng trú tại: Đường N, Quận S, TP Đà Nẵng.
Người đại diện theo ủy quyền hợp pháp của bị đơn: Ông Mai Đăng Trần L là ông Mai Thanh P; Địa chỉ: Đường N, Quận S, TP Đà Nẵng (Giấy ủy quyền, lập ngày 11/01/2018 tại Phòng Công chứng Phạm Văn K - Quận S, TP Đà Nẵng).
NỘI DUNG TÌNH HUỐNG

Đơn từ Trung tâm Hỗ trợ Phát triển Nguồn nhân lực Chất lượng cao (gọi tắt là Trung tâm), nộp:

- Ông Mai Đăng Trần L tham gia Dự án phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao (gọi tắt là chương trình) và được UBND thành phố Đà Nẵng cử đi học tại Đại học Swinburne, Úc; Cử Nhân Công Nghệ Thông Tin; thời gian học ba năm; Thành phố tài trợ cho đào tạo. - Tháng 8/2011, sau khi tốt nghiệp đại học, ông L được UBND thành phố Đà Nẵng (gọi tắt là thành phố) cho phép tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ công tác tại thành phố đến hết tháng 8. . Năm 2012 tiếp tục học Cử nhân Danh dự ngành Khoa học Máy tính tại Đại học Swinburne, Úc bằng kinh phí tự túc. Tuy nhiên, ông L không học đúng chương trình này mà tự ý chuyển sang học chương trình Cử nhân Thương mại, chuyên ngành Tài chính. Sau khi xem xét, Thành phố đã tạo điều kiện cho ông L được hoãn thực hiện nghĩa vụ công tác tại Thành phố đến hết tháng 3/2015 để hoàn thành chương trình học tập.
- Trong thời hạn trên, anh L và gia đình có đơn gửi Trung tâm đề nghị tiếp tục tạm hoãn thời gian chấp hành nghĩa vụ công tác cho Thành phố trong thời hạn 01 năm để ở lại làm thêm để trang trải. học phí chưa nộp. Tuy nhiên, xét thấy ông L chưa chấp hành nghiêm túc các quy định trong Kế hoạch và lý do ông L xin hoãn thực hiện nghĩa vụ công tác đối với Thành phố là chưa thỏa đáng, ngày 07/4/2015, Trung tâm đã ra quyết định có văn bản yêu cầu ông L có mặt trước ngày 15/4/2015 để làm thủ tục nhận công tác tại TP. Sau khi nhận được văn bản trên, ngày 20/4/2015, anh L đã gửi email đến Trung tâm xin bảo lưu nguyện vọng được lùi thời gian nhận việc để ở lại làm thêm giờ, để không phải đến hạn nộp hồ sơ. . hạn quy định. Trung tâm đã làm việc với gia đình anh L để đề nghị động viên anh sớm trở về, thực hiện nghĩa vụ công tác đối với Thành phố, nhưng gia đình anh L vẫn mong muốn Thành phố tạo điều kiện cho anh về nước. ở lại và làm việc ngoài giờ.
- Xét thấy ông L đã vi phạm nội dung không quay lại thực hiện các bước tiếp nhận việc làm sau khi có bằng tốt nghiệp quy định tại Hợp đồng số 09/2008/HĐDA-NN-LĐ ngày 14/5/2008 và các Phụ lục của Hợp đồng. Với văn bản hợp đồng kèm theo, Thành phố đã ra quyết định chấm dứt việc tham gia Phương án và hoàn trả tiền cho ông L theo quy định. Cụ thể, anh L cùng bố mẹ là ông Mai Thanh P và bà Trần Thị N phải hoàn trả cho Thành phố 100% kinh phí đào tạo được cấp kể từ khi tham gia Đề án với tổng số tiền là 1.414.382.233 đồng trước đó. 12/08/2015.
- Trong quá trình thực hiện nghĩa vụ do khó khăn về kinh tế nên ông L, ông P, bà N đã hoàn trả được tổng số tiền là 375.000.000 đồng.
- Đến trước thời điểm Trung tâm nộp đơn khởi kiện, anh L, ông P và bà N mới bồi hoàn được tổng số tiền 375.000.000 đồng. Do đó, để đảm bảo Đề án Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao được thực hiện nghiêm túc và đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, Trung tâm yêu cầu anh L, ông P và bà N phải liên đới bồi hoàn đầy đủ chi phí đào tạo còn lại cho Trung tâm với số tiền 1.039.382.233 đồng và tiền lãi bắt đầu tính từ ngày 12-8-2015 theo mức lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định là 1%/năm, đối với khoản tiền chậm bồi hoàn.
- Tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày xác định thêm là đến ngày 01-6-2018 phía bị đơn đã thanh toán xong toàn bộ số tiền chi phí đào tạo 1.414.382.233 đồng, còn nợ lại chưa thanh toán số tiền lãi tính đến ngày 01-6-2018 là 32.770.328 đồng; nên nay Trung tâm chỉ còn yêu cầu anh L, ông P và bà N phải thanh toán số tiền lãi là 32.770.328 đồng.
Bị đơn ông Mai Thanh P và bà Trần Thị N, thống nhất trình bày:

- Ông, bà thống nhất với toàn bộ lời trình bày của phía nguyên đơn về việc anh Mai Đăng Trần L tham gia Đề án và việc ký kết hợp đồng, cũng như các phụ lục hợp đồng để nhận hỗ trợ kinh phí đào tạo đi du học nhưng sau khi tốt nghiệp đã không về trình diện để nhận công việc tại Thành phố theo cam kết. Nay ông, bà và anh L xác định có nghĩa vụ thanh toán toàn bộ chi phí đào tạo là 1.414.382.233 đồng và tiền lãi cho Trung tâm theo yêu cầu khởi kiện; đã thanh toán được 375.000.000 đồng, còn tiếp tục phải thanh toán 1.039.382.233 đồng và tiền lãi bắt đầu tính từ ngày 12-8-2015 theo mức lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định là 1%/năm, đối với khoản tiền chậm bồi hoàn.
- Tuy nhiên do hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn nên đề nghị được thanh toán chậm theo lộ trình đến tháng 7 năm 2018 sẽ dứt điểm.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án; và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 280, Điều 288 và Điều 688 của Bộ luật dân sự; Nghị định 143/2013/NĐ-CP ngày 24-10-2013 của Chính phủ Quy định về bồi hoàn học bổng và chi phí đào tạo, chấp nhận yêu cầu bồi hoàn chi phí đào tạo của Trung tâm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đối với anh Mai Đăng Trần L, ông Mai Thanh P và bà Trần Thị N.
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên toà, sau khi đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến, Hội đồng xét xử nhận định:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Bị đơn anh Mai Đăng Trần L là công dân Việt Nam; có địa chỉ cư trú tại Australia (Úc) và bị đơn ông Mai Thanh P và bà Trần Thị N có địa chỉ cư trú tại Đường N, quận S, thành phố Đà Nẵng, nên vụ án tranh chấp về bồi thường chi phí đào tạo thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng theo quy định tại các Điều 37, Điều 40, Điều 464, Điều 469 của Bộ luật tố tụng dân sự;

[2] Hội đồng xét xử xét thấy, anh Mai Đăng Trần L tự nguyện đăng ký tham gia Đề án hỗ trợ đào tạo bậc đại học tại các cơ sở giáo dục trong nước và ở nước ngoài bằng ngân sách Nhà nước dành cho học sinh các trường trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Đà Nẵng và được Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng quyết định cử đi học đại học tại Trường Đại học Swinburne, Úc. Trên cơ sở Quyết định cử đi học của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng, Thành phố đã ký Hợp đồng với anh Mai Đăng Trần L và ông Mai Thanh P, bà Trần Thị N (là cha mẹ đẻ của anh L) để Trung tâm cấp hỗ trợ 100% chi phí đào tạo cho anh L đi học và anh L có trách nhiệm sau khi tốt nghiệp đại học về Thành phố để nhận công tác và phục vụ cho thành phố Đà Nẵng trong thời gian ít nhất là bảy năm; trường hợp vi phạm thỏa thuận tại hợp đồng thì có nghĩa vụ cùng với gia đình, chịu trách nhiệm bồi thường gấp năm lần toàn bộ chi phí do Trung tâm hỗ trợ.
[3] Xét yêu cầu khởi kiện bồi hoàn chi phí đào tạo của Trung tâm đối với anh Mai Đăng Trần L, ông Mai Thanh P và bà Trần Thị N thì thấy, sau khi tốt nghiệp, anh L không về Trung tâm trình diện để thực hiện nghĩa vụ làm việc cho Thành phố, mà đề nghị được ở lại Úc để làm thêm trong hạn 01 năm, nhưng Thành phố không chấp nhận. Do vậy, ngày 15-5-2015, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng đã ban hành Quyết định số: 2737/QĐ-UBND Về việc chấm dứt tham gia đề án và bồi hoàn kinh phí do vi phạm hợp đồng đào tạo đối với học viên Mai Đăng Trần L.
Việc anh L sau khi tốt nghiệp đại học nhưng không về nhận công tác và phục vụ cho thành phố Đà Nẵng là vi phạm nghĩa vụ tại hợp đồng đã cam kết, theo quy định tại Điều 274 của Bộ luật dân sự năm 2015. Tổng số tiền từ ngân sách Nhà nước Trung tâm đã chi cho anh L đi học đại học tại Trường Đại học Swinburne Úc là 1.414.382.233 đồng; trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn xác định có nghĩa vụ bồi hoàn toàn bộ chi phí đào tạo và tiền lãi theo lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định là 1%/năm tính từ ngày 12/8/2015 cho đến khi thực hiện xong nghĩa vụ cho Trung tâm. Tính đến ngày 01-6-2018 anh L, ông P và bà N đã nộp tiền bồi hoàn toàn bộ chi phí đào tạo cho Trung tâm; riêng tiền lãi tính đến ngày 01-6-2018 là 32.770.328 đồng chưa thanh toán dứt điểm, nên cần buộc anh L, ông P và bà N phải thanh toán tiền lãi nói trên cho Trung tâm để nộp vào ngân sách nhà nước là phù hợp với quy định tại Điều 280, Điều 288 của Bộ luật dân sự; Nghị định số: 143/2013/NĐ-CP ngày 24-10-2013 của Chính phủ Quy định về bồi hoàn học bổng và chi phí đào tạo; Điều 4 của Hợp đồng số: 09/2008/HĐDA-NN-LQĐ về Thực hiện “Đề án hỗ trợ đào tạo bậc đại học tại các cơ sở giáo dục trong nước và ở nước ngoài bằng ngân sách Nhà nước dành cho học sinh các trường trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” ký ngày 14/5/2008, giữa Thành phố và anh Mai Đăng Trần L, ông Mai Thanh P, bà Trần Thị N.
[4] Xét yêu cầu được thanh toán chậm theo phương thức của bị đơn là không được Trung tâm đồng ý và không có căn cứ pháp luật nên không được chấp nhận. [5] Án phí dân sự sơ thẩm mà ông Mai Đăng Trần L, ông Mai Thanh P và bà Trần Thị N phải chịu theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự.
Vì những lý do trên,

PHÁN QUYẾT

Căn cứ các Điều 37, 40, 464 và 469 của Bộ luật tố tụng dân sự; điều 280, điều 288 và điều 688 của bộ luật dân sự; Nghị định số 143/2013/NĐ-CP ngày 24 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định về hoàn trả học bổng và chi phí đào tạo; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí, lệ phí hợp pháp.
Chấp nhận yêu cầu Trung tâm hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao hoàn trả chi phí đào tạo cho ông Mai Đặng Trần L, ông Mai Thanh P và bà Trần Thị N.
Bản án:

1. Buộc ông Mai Đăng Trần L, ông Mai Thanh P và bà Trần Thị N trả cho Trung tâm Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao số tiền lợi nhuận là 32.770.328 đồng (ba mươi hai triệu bảy trăm bảy mươi nghìn đồng). , ba trăm hai mươi tám đồng). Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với khoản phải trả của người phải thi hành án) đến khi trả hết số tiền thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu tiền lãi đối với số tiền chậm thi hành nghĩa vụ theo mức lãi suất do các bên thoả thuận nhưng không vượt quá mức lãi suất quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự; không thỏa thuận được thì áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 468 BLDS.
2. Về án phí: Ông Mai Đăng Trần L, ông Mai Thanh P và bà Trần Thị N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 1.638.516 đồng (một triệu sáu trăm ba mươi tám một nghìn năm trăm lẻ mười sáu đồng). ).
3. Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; Các bên bị ảnh hưởng vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong vòng 15 ngày kể từ ngày bản án được tuyên và tống đạt hợp lệ. 4. Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Mục 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận về việc thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án dân sự. thi hành bản án. yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các mục 6, 7 và 9 của Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án số 32/2018/ds-st

Bản án số 32/2018/ds-st


TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, TỈNH TRÀ VINH .

Bản án 32/2018/DS-ST NGÀY 03/10/2018 VỀ TRANH CHẤP THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG Y TẾ

Ngày 03/10/2018 tại Tòa án nhân dân quận Cầu K, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử vụ án Bản án sơ thẩm số: 610/2018/TLST-DS ngày 24/7/2018 về việc tranh tụng bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đối với sức khỏe theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 53/2018/QĐXX-ST ngày 27 tháng 8 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 55/2018/QĐST-DS ngày 17 tháng 9 năm 2018 giữa Hội đồng xét xử các bên:

- Người khiếu nại: Anh Nguyễn Phúc H, sinh năm 1999. (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp An Bình, xã Hòa Tân, huyện Cầu K, tỉnh Trà Vinh. Người đại diện theo pháp luật của người nộp đơn:

Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1964. (quà)

Địa chỉ: Ấp An Bình, xã Hòa Tân, huyện Cầu K, tỉnh Trà Vinh theo văn bản ủy quyền ngày 29/6/2018.
- Bị can: Anh Nguyễn Bảo Kh, sinh ngày 17/8/2000.

ĐKKT: Ấp Giồng Dầu, xã Hòa An, huyện Cầu K, tỉnh Trà Vinh.
Địa chỉ: Khóm 1, thị trấn Cầu Kè, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1971. Địa chỉ: Ấp Giồng Dầu, xã Hòa An, huyện Cầu K, tỉnh Trà Vinh.
NỘI DUNG TÌNH HUỐNG

Theo đơn khởi kiện của ông Nguyễn Phúc H và lời khai tại tòa ông Nguyễn Văn H đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày:

Ngày 28/02/2018, anh Nguyễn Phúc H bị anh Nguyễn Bảo Kh dùng dao gây thương tích và được đưa đến Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ điều trị 1 ngày sau đó tại nhà ở ấp An Bình, xã Hòa Tân, huyện Cầu huyện K., tỉnh Trà Vinh. Sự việc được trình báo lên Công an huyện Cầu K, do sau khi gây thương tích cho anh H, anh Kh đã thỏa thuận bồi thường chi phí điều trị và ngày công lao động với tổng số tiền là 6.723.500 đồng nên anh H kháng cáo. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cầu K đã ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Tuy nhiên, ông Nguyễn Bảo Kh chỉ bồi thường cho ông H 1.500.000 đồng, số tiền còn lại 5.223.500 đồng ông H không bồi thường. Nay anh H yêu cầu anh Nguyễn Bảo Kh tiếp tục bồi thường thiệt hại về sức khỏe với số tiền là 5.223.500 đồng.
Tại phiên tòa, ông Nguyễn Văn H người đại diện hợp pháp của ông Nguyễn Phúc H luôn giữ nguyên yêu cầu của ông H và không bổ sung gì thêm.
Ông Nguyễn Bảo Kh là bị đơn vắng mặt nhưng có lời khai như sau:

Ông Kh đã nhận được thông báo thụ lý vụ án và biết được việc ông Nguyễn Phúc H có yêu cầu khởi kiện. Anh Kh thừa nhận đã gây thiệt hại cho anh H và đồng ý bồi thường toàn bộ số tiền còn lại cho anh H. trả lại 5.223.500 đồng theo yêu cầu của anh H.
Ông Nguyễn Văn D là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã nhiều lần được triệu tập đều vắng mặt. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát:

Đối với việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, việc ra bản án đúng quy định của pháp luật.
Tôn trọng các bên liên quan trong tố tụng: Nguyên đơn đã tuân thủ quy định tại các điều 70, 71 và 86 của Bộ luật tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa. Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng.
Về nội dung vụ án, Kiểm sát viên đề nghị cấp sơ thẩm:

Áp dụng mục 26, mục 35, mục 39, khoản 1 mục 39; Điều 147, 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng các điều 584 585 586 590 BLDS 2015;

Thực hiện Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 Quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của ông Nguyễn Phúc H. buộc ông Nguyễn Bảo Kh. phải tiếp tục bồi thường cho ông Nguyễn Phúc H tổng số tiền là 5.223.500 đồng. Về án phí: Buộc ông Nguyễn Bảo Kh. phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN XÉT CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các tài liệu có trong biên bản được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử kết luận:

[1] Về tố tụng: Ông Nguyễn Phúc H khởi kiện ông Nguyễn Bảo Kh yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức khỏe ngoài hợp đồng. Xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại các Điều 26, 35 và 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Ông Nguyễn Bảo Kh và ông Nguyễn Văn D đã nhiều lần được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng đều vắng mặt nên căn cứ Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án đã tiến hành xét xử vắng mặt ông M. Kh và ông D. M.D.
[2] Tại phiên tòa, anh Nguyễn Văn H là người đại diện hợp pháp của anh Nguyễn Phúc H yêu cầu Tòa án ra quyết định buộc anh Nguyễn Bảo Kh bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho anh Nguyễn Phúc H với tổng số tiền là: số tiền 5.223..500 đồng. [3] Đối với anh Nguyễn Phúc H tuy vắng mặt nhưng có lời khai thừa nhận đã gây thiệt hại cho anh H và đồng ý tiếp tục bồi thường cho anh H số tiền là 5.223.500 đồng.
[4] Hội đồng xét xử kết luận, ngày 28/02/2018, ông Nguyễn Bảo Kh đã có hành vi xúc phạm ông Nguyễn Phúc H. Trong quá trình điều tra, xác minh và tố giác tội “cố ý gây thương tích” tại Công an huyện Cầu K , giữa anh Nguyễn Phúc H và anh Nguyễn Bảo Kh đã tự nguyện thỏa thuận với nhau về việc bồi thường thiệt hại về sức khỏe nên anh Hậu rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự và Cơ quan điều tra hình sự. Công an huyện Cầu K đã ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Tuy nhiên, do ông Kh không thực hiện việc bồi thường nên ngày 29/6/2018, ông Nguyễn Phúc H đã khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết, buộc ông Nguyễn Bảo Kh có trách nhiệm tiếp tục bồi thường thiệt hại với tổng số tiền là 5.223.500 đồng. .
[5] Xét việc anh Nguyễn Bảo Kh gây thương tích cho anh Nguyễn Phúc H là đúng. Anh Kh đã có những lời khai thừa nhận hành vi của mình gây thiệt hại cho anh H và tự nguyện tiếp tục bồi thường số tiền là 5.223.500 đồng, tại thời điểm anh H khởi kiện anh Kh chưa đủ 18 tuổi nên Tòa án tuyên Ông Văn D là bố đẻ của anh Kh tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng tính đến ngày xét xử hôm nay (3/10/2018) anh Kh mới 18 tuổi. người đã thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định tại Điều 20 BLDS 2015. Do đó, có đủ căn cứ buộc ông Nguyễn Bảo Kh phải cam kết bồi thường cho ông Nguyễn Phúc H số tiền là 5.223.500 đồng.
[6] Về án phí: Ông Nguyễn Phúc H đã chấp nhận yêu cầu nên không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Đồng thời, căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng phí, lệ phí có hiệu lực từ ngày 30/5 . Tháng 12/2016, Ủy ban Thường vụ Quốc hội buộc ông Nguyễn Bảo Kh. phải nộp án phí dân sự sơ thẩm.
Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật. [7] Từ những lý do trên có thể thấy quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Kè về việc giải quyết vụ án là đúng đắn.
Vì những lý do trên;

PHÁN QUYẾT

Căn cứ các Điều 26, 35, 147, 227, 271 và Khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

Căn cứ các Điều 275, 584, 585, 590, 357 và Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định mức thu, miễn, giảm, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí, lệ phí ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Chấp nhận yêu cầu của anh Nguyễn Phúc H. buộc anh Nguyễn Bảo Kh tiếp tục bồi thường cho anh Nguyễn Phúc H số tiền là 5.223.500 đồng (Năm triệu hai trăm hai mươi ba nghìn năm trăm đồng).
Kể từ thời điểm bản án có hiệu lực pháp luật và có đơn yêu cầu thi hành án của người phải thi hành án, cho đến khi bản án được đình chỉ thì hàng tháng người phải thi hành án phải trả thêm tiền cho người phải thi hành án. tỷ lệ quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với thời điểm chưa thi hành án. Về án phí: Ông Nguyễn Phúc H không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Buộc anh Nguyễn Bảo Kh. phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm với số tiền là 261.000 đồng (Hai trăm sáu mươi mốt nghìn đồng).
Đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Toà án tống đạt bản án hoặc đăng bản án theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành đúng quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền thỏa thuận việc thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự Bản án, thời hiệu Việc thi hành bản án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo