TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 29/2017/KDTM-PT NGÀY 04/05/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Trong các ngày 03/5/2017 và 04/5/2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 88/2016/TLPT-KDTM ngày 07/12/2017 về việc “tranh chấp hợp đồng tín dụng” do Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm 05/2016/KDTM-ST ngày 13/09/2016 của Tòa án nhân dân quận NTL, TP Hà Nội bị kháng cáo, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 52/2017/QĐXX-PT ngày 21/03/2017, Quyết định hoãn phiên tòa số 84/2017/QĐPT-KDTM ngày 11/4/2017, Quyết định hoãn phiên tòa số 99/2017/QĐPT-KDTM ngày 25/4/2017,giữa:
Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP E
Trụ sở: đường LTT, phường BN, quận 1, TP Hồ Chí Minh
Người đại diện theo pháp luật: ông Lê Văn Q- chức vụ: Tổng giám đốc
Người đại diện theo ủy quyền: ông Nguyễn Toàn T (theo Giấy ủy quyền số 302/2016/E/UQ- TGĐ ngày 28/4/2016) (ông T có mặt tại phiên tòa).
Bị đơn: Công ty CP Q
Trụ sở: khu đô thị MĐ, phường MĐ, quận NTL, TP Hà Nội
Người đại diện theo pháp luật: bà Nguyễn Thị Lệ H- chức vụ: Giám đốc (bà H có mặt tại phiên tòa)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn: Luật sư Nguyễn Đức L và Luật sư Nguyễn Thu A- Văn phòng Luật sư NKT thuộc Đoàn luật sư TP Hà Nội (ông L và bà A có mặt tại phiên tòa).
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
- Ông Nguyễn Duy T, sinh năm 1938;
- Bà Đỗ Thị Q, sinh năm 1942.
Cùng địa chỉ: tập thể QL, phường QL, quận HBT, TP Hà Nội.
Đại diện theo ủy quyền cho ông T và bà Q: bà Nguyễn Thị Lệ H, sinh năm 1971 (trú tại khu đô thị MĐ, phường MĐ, quận NTL, TP Hà Nội (bà H có mặt tại phiên tòa). TÌM THẤY NÀY
Theo Bản án thương mại sơ thẩm số 05/2016/KDTM-ST ngày 13/9/2016 của Tòa án nhân dân quận NTL, Hà Nội, vụ án có nội dung như sau:
Trong đơn đề nghị và lời khai tại phiên giải quyết vụ án, Nguyên đơn Ngân hàng Thương mại cổ phần trình bày:
Ngày 14/11/2011, Ngân hàng TMCP E (sau đây gọi tắt là Ngân hàng E) ký hợp đồng tín dụng và cam kết nhận nợ với Công ty Cổ phần Q (sau đây gọi tắt là Công ty Q). 2011-11-14; Hợp đồng nhận nợ số 1701-LDS-201102282 ngày 14/11/2011, cụ thể:
- Số tiền vay: 3.100.000.000 đồng;
- Thời gian vay: từ ngày 14 tháng 11 năm 2011 đến ngày 14 tháng 7 năm 2012;
- Mục đích vay: chi tiền tổ chức sự kiện;
- Lãi suất vay: 21%/năm;
- Chu kỳ thay đổi lãi suất:
Lãi suất ghi nợ được điều chỉnh mỗi tháng một lần, kể từ ngày hợp đồng có hiệu lực;
Lãi suất điều chỉnh được áp dụng cho toàn bộ dư nợ của hợp đồng này kể từ thời điểm điều chỉnh cho đến thời điểm điều chỉnh tiếp theo...
- Lãi suất chậm trả: 150% lãi suất tiền vay.
Tài sản đảm bảo cho khoản vay: là quyền sử dụng 58,70m2 đất ở, hình thức sử dụng riêng và toàn bộ tài sản trên đất tại TT QL, phường QL, quận HBT, TP Hà Nội. Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở đứng tên ông Nguyễn Duy T và vợ là bà Đỗ Thị Q. Hợp đồng thế chấp được công chứng ngày 11/11/2011 tại phòng công chứng số .3-TP. Hà Nội. Đăng ký giao dịch đảm bảo ngày 14/11/2011 tại Văn phòng đăng ký đất đai và Nhà UBND huyện HBT.
Tài sản đảm bảo cho khoản vay hiện do ông T và bà Q quản lý, sử dụng, từ khi thế chấp đến nay tài sản được giữ nguyên hiện trạng.
Trong thời gian thực hiện hợp đồng, công ty Q đã trả 341.209.200 đồng tiền lãi, sau đó không trả được nữa. Đến hạn, Công ty không thanh toán cho Ngân hàng, vi phạm nghĩa vụ thanh toán.
Vì vậy, Ngân hàng đã nhiều lần thông báo yêu cầu trả nợ nhưng Công ty không trả và khoản nợ của Công ty đã chuyển thành nợ quá hạn. Nay Ngân hàng đề nghị: buộc Công ty Q phải trả đủ nợ gốc và lãi theo Hợp đồng tín dụng và Khế ước nhận nợ có hiệu lực từ ngày 19/8/2016, cụ thể:
Tổng số tiền gốc và lãi là: 5.491.563.890 đồng, trong đó:
- Nợ chính: 3.100.000.000 đồng;
- Lãi có kỳ hạn: 1.709.606.946 đồng
- Lãi chậm trả: 681.956.944 đồng.
Ngoài ra, công ty Q còn phải tiếp tục trả lãi tính theo hợp đồng tín dụng cho đến khi trả hết nợ cho ngân hàng E.
Trường hợp bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà Công ty Q không trả hoặc trả không đầy đủ khoản nợ trên thì Ngân hàng E có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án thu giữ và giải tỏa tài sản bảo đảm cho khoản vay cho thu hồi nợ của Ngân hàng theo quy định của pháp luật. Trường hợp số tiền bán tài sản bảo đảm không trả hết nợ cho Ngân hàng E thì Công ty có trách nhiệm thanh toán số tiền còn nợ cho Ngân hàng.
Công ty cổ phần Q Bị đơn do bà Nguyễn Thị Lệ H đại diện trình bày:
Ngày 14/11/2011, chi nhánh Ngân hàng E LB cho Công ty Q vay số tiền là 3.100.000.000 đồng. Theo hợp đồng tín dụng số 1701-LAV201101190 ngày 14 tháng 11 năm 2011; Hợp đồng nhận nợ số 1701-LDS-201102282 ngày 14/11/2011. Thời hạn vay từ ngày 14/11/2011 đến ngày 14/7/2012.
Tài sản đảm bảo cho khoản vay là tài sản và quyền sử dụng của TT QL, phường QL, quận HBT, TP Hà Nội đã được UBND TP Hà Nội cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu và sử dụng đất ở ngày 24/7/2002 đứng tên ông. .Nguyễn Duy T và bà Đỗ Thị Q. Hợp đồng thế chấp được công chứng ngày 11/11/2011 tại Công chứng số 3 Hà Nội. Đăng ký giao dịch đảm bảo ngày 14/11/2011 tại Văn phòng đăng ký đất đai và Nhà UBND huyện HBT. Tài sản này hiện do ông T và bà Q quản lý và giữ nguyên hiện trạng kể từ khi thế chấp.
Trong thời gian thực hiện hợp đồng, Công ty đã trả một phần tiền lãi nhưng do Công ty gặp khó khăn nên không trả được nữa. Việc Ngân hàng khởi kiện, Công ty không có ý kiến và sẽ chịu trách nhiệm trả nợ. Do Công ty gặp khó khăn nên Công ty đã đề nghị Ngân hàng miễn toàn bộ lãi phát sinh.
Người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (ông Nguyễn Duy T, bà Đỗ Thị Q) là bà Nguyễn Thị Lệ H trình bày:
Ông Nguyễn Duy T và bà Đỗ Thị Q đã dùng tài sản của mình để đảm bảo cho hợp đồng vay giữa Ngân hàng E và Công ty Q (Hợp đồng tín dụng số 1701LAV201101190 ngày 14/11/2011) với số tiền vay là 3.100.000.000 đồng, thời hạn vay là: thời gian vay từ ngày 14 tháng 01 năm 2011 đến ngày 14 tháng 7 năm 2012; Bên bảo hành là tài sản nhà, quyền sử dụng đất, tọa lạc tại TT QL, Phường QL, Quận HBT, TP Hà Nội. Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở do UBND TP.Hà Nội cấp ngày 24/7/2002 đứng tên ông Nguyễn Duy T và bà Đỗ Thị Q. Hợp đồng thế chấp được công chứng ngày 11/11 /2011 tại Phòng Công chứng số 3, TP Hà Nội. Đăng ký giao dịch đảm bảo ngày 01/11/2011 tại Văn phòng đăng ký đất đai và nhà UBND huyện HBT.
Ông T và bà Q sẽ tự nguyện chấp hành mọi quy định của pháp luật và sẽ tự nguyện trả khoản nợ trên cho Công ty. Họ đề nghị Ngân hàng cơ cấu lại khoản nợ để họ và Công ty có thời gian trả nợ. Tài sản thế chấp vay vốn hiện do ông T và bà Q. quản lý, sử dụng, từ thời điểm thế chấp đến nay vẫn giữ nguyên hiện trạng.
Tại Vụ án Thương mại sơ thẩm số 05/2016/KDTM-ST ngày 13/9/2016 của Tòa án nhân dân huyện NTL, Tòa án đã phán quyết:
Chấp nhận Yêu cầu khởi kiện “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” của Ngân hàng thương mại cổ phần E đối với Công ty cổ phần Q.
- Buộc Công ty Cổ phần Q phải trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần E số tiền gốc và lãi phát sinh từ Hợp đồng tín dụng là 5.520.626.390 đồng. Trong đó tiền gốc là 3.100.000.000 đồng và tiền lãi phát sinh là 2.420.626.390 đồng.
Trường hợp bản án có hiệu lực pháp luật mà Công ty cổ phần Q không trả hoặc không trả đủ số tiền gốc và lãi phát sinh nêu trên theo Hợp đồng tín dụng thì Ngân hàng TMCP E có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án thi hành án. một vụ bắt giữ thương mại. của tài sản bảo đảm để đòi nợ, cụ thể khối tài sản là quyền sử dụng 58,70 m2 đất ở, hình thức sử dụng riêng và toàn bộ tài sản trên đất tại TT QL, huyện QL, huyện HBT, TP Hà Nội. Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở do UBND TP Hà Nội cấp ngày 24/7/2002 đứng tên ông Nguyễn Duy T và bà Đỗ Thị Q. Hợp đồng thế chấp được công chứng ngày 11/11. Ngày 11/11/2011 tại Phòng công chứng số 3 Hà Nội. Đăng ký giao dịch đảm bảo ngày 14/11/2011 tại Văn phòng đăng ký đất đai và Nhà UBND huyện HBT.
Bác bỏ các yêu cầu khác của đương sự.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Không đồng ý với Bản án sơ thẩm nêu trên bị đơn, Công ty Q và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Thanh D, bà Đỗ Thị Q kháng cáo toàn bộ đối với Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 05/2016/KDTM -ST ngày 13/9/2016 của Tòa án nhân dân quận NTL, với lý do là Hội đồng xét xử sơ thẩm không xem xét đầy đủ Bản án, lãi suất phía Ngân hàng tính chưa rõ ràng, số liệu không khớp và lãi suất quá cao dẫn đến buộc bị đơn phải trả tiền cho Ngân hàng, trong trường hợp bị đơn không trả được thì tài sản mà người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thế chấp cho bị đơn vay tiền sẽ bị phát mại để bảo đảm thu nợ.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:
Đại diện của nguyên đơn Ngân hàng E trình bày: Ngân hàng giữ nguyên các ý kiến đã trình bày tại Tòa án cấp sơ thẩm và đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn và của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan do các yêu cầu kháng cáo không có cơ sở và căn cứ pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên các quyết định của Bản án sơ thẩm, yêu cầu bị đơn phải thanh toán cho Ngân hàng cả gốc và lãi.
Ngân hàng không chấp nhận ý kiến của Luật sư về việc điều chỉnh lãi suất cho Công ty Q theo quy định tại Thông tư số 33/2012/TT- NHNN ngày 21/12/2012 của Ngân hàng nhà nước do Hợp đồng tín dụng mà Ngân hàng E và Công ty Q ký kết không thuộc đối tượng điều chỉnh của Thông tư này.
Hơn nữa, Luật sư viện dẫn các quy định của Bộ luật dân sự về lãi suất (Điều 305, Điều 476 Bộ luật dân sự năm 2005) để đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng về cách tính lãi đối với Công ty Q theo lãi suất cơ bản là không có căn cứ, bởi lẽ đây là quan hệ Hợp đồng tín dụng và chịu sự điều chỉnh của Luật các tổ chức tín dụng. Đại diện của bị đơn, Công ty Q, đệ trình:
Công ty Q đề nghị Hội đồng xét xử xem xét lại bản án, đặc biệt là cách tính lãi của Ngân hàng E là không chính xác. Căn cứ vào bảng tính lãi do Ngân hàng E trình bày tại phiên tòa, Ngân hàng đã không điều chỉnh lãi suất theo thỏa thuận mà hai bên đã ký kết trong hợp đồng tín dụng, ví dụ từ ngày 8/12/2014 đến ngày 23/5/2014. Năm 2014, theo thông báo lãi suất của Ngân hàng E, lãi suất sẽ được điều chỉnh lên 9%/năm, nhưng Ngân hàng E vẫn áp dụng mức lãi suất 10%/năm, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của Công ty Q. .
Ngoài ra, trên thực tế hiện nay công ty Q đang gặp nhiều khó khăn trong quá trình kinh doanh nên đề nghị ngân hàng E tạo điều kiện cho công ty cơ cấu lại nợ vay, miễn giảm lãi vay để công ty có thu xếp trả nợ. món nợ cho ngân hàng. .
Về đơn xin phát mại tài sản thế chấp đứng tên của ông Nguyễn Duy T và bà Đỗ Thị Q: Công ty Q sẽ chịu trách nhiệm trả nợ, tuy nhiên do hiện nay Công ty đang gặp nhiều khó khăn nên đề nghị Ngân hàng E tạo điều kiện trả nợ dần cho công ty và tạo điều kiện cho ông T và bà Q có chỗ ở do hai ông bà đã cao tuổi và không còn chỗ ở nào khác.
Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo trình bày:
Đề nghị CĐ xem xét lại bản án, cụ thể là về yêu cầu tính lãi do Ngân hàng E áp dụng mức lãi suất quá cao, không đúng quy định của pháp luật.
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng quy định về cách tính lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 305, khoản 1 Điều 476, khoản 5 Điều 474 Bộ luật dân sự năm 2005 và Thông tư số 33/2012/TT- NHNN ngày 21/12/2012 của Ngân hàng nhà nước để điều chỉnh mức lãi suất áp dụng đối với Công ty Q.
Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị đơn về lãi suất trong hạn, lãi suất quá hạn và không chấp nhận cách tính lãi suất của nguyên đơn, hủy Bản án sơ thẩm chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án để nguyên đơn tính lại lãi trong hạn và lãi quá hạn cho đúng quy định của pháp luật.
Đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày: đề nghị Ngân hàng E tạo điều kiện để Công ty Q thu xếp trả nợ dần và không phải phát mại tài sản thế chấp của ông Nguyễn Duy T và bà Đỗ Thị Q vì hiện nay ông bà đã già và không còn chỗ ở nào khác.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:
Về tố tụng: những người tiến hành tố tụng và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án từ thủ tục thụ lý vụ án, mở phiên tòa, điều hành phiên tòa. Tại phiên tòa xét xử phúc thẩm hôm nay,các đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật, đã được tranh luận và trình bày căn cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Về nội dung vụ án:đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vì lý do kháng cáo không có cơ sở pháp luật. Giữ nguyên các quyết định của Bản án sơ thẩm.
XÉT THẤY
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đó được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
Về tố tụng: đơn kháng cáo của bị đơn và đơn kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan kháng cáo Bản án sơ thẩm trong thời hạn luật định và các đương sự đã nộp tiền án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật. Do vậy, kháng cáo của bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là kháng cáo hợp lệ.
Xét các yêu cầu kháng cáo của bị đơn và kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Hội đồng xét xử thấy rằng:
Ngày 14/11/2011, Ngân hàng E và Công ty Q có ký kết Hợp đồng số 1701- LAV201101190 ngày 14/11/2011; Phụ lục hợp đồng; Khế ước nhận nợ số 1701- LDS-201102282 ngày 14/11/2011, cụ thể:
- Số tiền vay: 3.100.000.000 đồng;
- Thời hạn vay: từ ngày 14/11/2011 đến ngày 14/07/2012;
- Mục đích cho vay: thanh toán tiền tổ chức sự kiện;
- Lãi suất cho vay tại thời điểm giải ngân: 21%/năm;
- Chu kỳ thay đổi lãi suất:
Lãi suất cho vay được điều chỉnh định kỳ 01 tháng một lần, kể từ ngày hợp đồng có hiệu lực;
Lãi suất được điều chỉnh áp dụng cho toàn bộ dư nợ của hợp đồng này từ thời điểm điều chỉnh cho đến thời điểm điều chỉnh tiếp theo ... - Lãi suất chậm trả: 150% lãi suất tiền vay.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, bị đơn đã trả một phần tiền lãi. Tuy nhiên, đến hạn, bị đơn không trả tiền gốc theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng cho nguyên đơn. Như vậy, bị đơn đã không thực hiện được nghĩa vụ thanh toán mặc dù nguyên đơn đã nhiều lần yêu cầu bị đơn trả nợ nhưng bị đơn không trả và khoản nợ của bị đơn chuyển thành nợ quá hạn.
Trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm, đại diện của bị đơn thừa nhận bị đơn mới chỉ trả được một phần tiền lãi, nhưng do bị đơn gặp khó khăn về tài chính nên không còn khả năng trả. Như vậy, có đủ căn cứ xác định bên vay là Công ty Q không thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
Theo quy định tại mục 2.1, mục 5.3 của phụ lục hợp đồng, khi hết thời hạn vay mà công ty Q không trả đủ nợ gốc thì sẽ bị chuyển thành nợ quá hạn và Ngân hàng có quyền đòi nợ trước hạn đối với toàn bộ số dư nợ gốc và lãi phát sinh chưa trả.
Như vậy, tòa án cấp sơ thẩm xác định số dư nợ chính mà bị đơn phải trả cho nguyên đơn là 3.100.000.000 đồng là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật (nguyên đơn và bị đơn đều không có tranh chấp về yêu cầu bồi thường). tổng này).
Đối với yêu cầu kháng cáo của bị đơn đề nghị tính lại tiền lãi theo hợp đồng tín dụng mà hai bên đã ký kết, hội đồng xét xử xét thấy:
Khi hai bên ký kết hợp đồng tín dụng, phụ lục hợp đồng, các bên đã thỏa thuận thời hạn vay, lãi suất và lãi phạt chậm trả là hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc, lừa dối nên có hiệu lực đối với các bên.
Hợp đồng tín dụng giữa hai bên đã ký kết thỏa thuận về mức lãi suất cụ thể như sau: lãi suất khoản vay tại thời điểm giải ngân là 21%/năm; Chu kỳ diễn biến lãi suất khoản vay được điều chỉnh 1 tháng/lần, kể từ ngày hợp đồng có hiệu lực. Lãi suất điều chỉnh áp dụng cho toàn bộ dư nợ của hợp đồng này kể từ thời điểm điều chỉnh cho đến thời điểm điều chỉnh tiếp theo...; lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất hiện hành.
Căn cứ Tờ trình tính lãi và Quyết định điều chỉnh lãi suất do Ngân hàng E đệ trình, Hội đồng xét xử kết luận:
Lãi suất kỳ hạn và lãi suất không kỳ hạn do các bên thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng phù hợp với quy định của pháp luật và có hiệu lực thi hành đối với các bên. Ngân hàng E đã xuất trình thông báo lãi suất điều chỉnh thay đổi theo từng thời kỳ (nội dung file 168-185).
Tuy nhiên, theo bảng tính lãi do Ngân hàng E trình bày trước Tòa án thì từ ngày 31/3/2014 đến ngày 30/3/2015, lãi suất Ngân hàng E áp dụng tại thời điểm đó là 10%/năm; từ ngày 31/03/2015 đến ngày 23/05/2015 lãi suất là 10%/năm nhưng theo Thông báo lãi suất số. /2015/EIB - TGĐ ngày 23/03/2015 của Ngân hàng E, kỳ này cần điều chỉnh lãi suất nhưng việc Ngân hàng áp dụng lãi suất 10%/năm cho cả hai kỳ là không đúng. Thông báo thay đổi lãi suất của Ngân hàng E làm ảnh hưởng đến quyền lợi của Công ty Q.
Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải điều chỉnh mức lãi suất áp dụng cho Công ty Q, cụ thể từ ngày 08/12/2014 đến ngày 13/4/2015 áp dụng mức lãi suất 10%; Từ ngày 14/04/2015 đến ngày 23/05/2015, lãi suất là 9%/năm. Các kỳ hạn khác, lãi suất vẫn được giữ nguyên như bảng tính lãi do Ngân hàng E xuất trình.
Như vậy, yêu cầu kháng cáo của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét lại mức lãi suất là có căn cứ để chấp nhận mức lãi suất đó, cụ thể:
- Lãi trong hạn: 1.725.537.501 đồng.
- Lãi chậm trả: 689.922.222 đồng.
Như vậy, tổng số tiền gốc và lãi Công ty Q phải trả cho ngân hàng E là: 5.515.459.723 đồng.
Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn đề nghị CĐ cấp sơ thẩm áp dụng quy định về tính lãi tại khoản 2 Điều 305, khoản 1 Điều 476 khoản 5 Điều 474 BLDS. 2005 và Thông tư số 33./2012/TT-NHNN ngày 21/12/2012 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam điều chỉnh lãi suất áp dụng đối với Công ty Q, Hội đồng xét xử cho rằng đây là quan hệ pháp luật tranh chấp hợp đồng. Các tổ chức tín dụng chịu sự điều chỉnh của một luật là Luật các tổ chức tín dụng nên không áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự về cách tính lãi trong trường hợp này. Ngoài ra, theo quy định tại khoản 2 điều 4 thông tư số 33/2012/TT-NHNN ngày 21/12/2012 quy định: “Lãi suất áp dụng đối với các hợp đồng tín dụng được ký kết trước ngày thông tư số 33/2012/TT-NHNN. Thông tư này có hiệu lực thi hành và có thể tiếp tục được thực hiện trong khuôn khổ hợp đồng tín dụng đã ký kết phù hợp với các quy định pháp luật có hiệu lực tại thời điểm ký kết hợp đồng tín dụng. Ngân hàng E và Công ty Q ký kết hợp đồng tín dụng vào ngày 14/11/2011 nên Thông tư số 33/2012/TT-NHNN có hiệu lực ngày 24/12/2012 không áp dụng trong trường hợp này. Như vậy, đề nghị của luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo là không có lý do để được tòa sơ thẩm chấp nhận.
Đối với yêu cầu thực hiện và bán tài sản bảo đảm cho khoản vay theo hợp đồng tín dụng, trong trường hợp Công ty Q không trả được nợ hoặc không thanh toán đầy đủ, thì việc hình thành thủ tục đầu tiên kết luận:
Tài sản bảo đảm tiền vay gồm quyền sử dụng đất ở diện tích 58,70 m2, hình thức sử dụng riêng và toàn bộ tài sản trên đất tại TT QL, phường QL, quận HBT, TP Hà Nội. Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở do UBND Thành phố Hà Nội cấp ngày 24/7/2002 đứng tên ông Nguyễn Duy T và bà Đỗ Thị Q. Hợp đồng thế chấp đã được công chứng ngày 11/11/2011 tại Phòng công chứng số 3 Hà Nội. Đăng ký giao dịch đảm bảo ngày 14/11/2011 tại Văn phòng đăng ký đất đai và Nhà UBND huyện HBT. Tài sản bảo đảm tiền vay hiện do ông T và bà Q quản lý, sử dụng. Từ khi thế chấp đến nay, tài sản được giữ nguyên hiện trạng.
Xét thấy hợp đồng thế chấp bảo lãnh khoản vay được ký kết giữa Ngân hàng E, Công ty Q và vợ chồng ông Nguyễn Duy T, bà Đỗ Thị Q là tự nguyện. Tài sản thế chấp thuộc quyền sở hữu, sử dụng hợp pháp của bên thế chấp. Hợp đồng được giao kết tại Phòng công chứng số 3-TP Hà Nội và phù hợp với quy định của pháp luật. Tài sản thế chấp đã được đăng ký bảo đảm tại cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật thì hợp đồng thế chấp là hợp pháp. Như vậy, yêu cầu quản lý bảo lãnh tiền vay theo hợp đồng tín dụng của Ngân hàng E trong trường hợp Công ty Q không trả nợ hoặc trả không đầy đủ là có căn cứ và phải được chấp nhận.
Căn cứ vào các nội dung trình bày trên, Hội đồng xét xử kết luận đã chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của Bị đơn và Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, sửa một phần Bản án xét xử về cách tính lãi.
Về án phí: Do sửa bản án sơ thẩm nên Người kháng cáo không phải chịu án phí phúc thẩm. Vì những lý do trên,
Áp dụng:
PHÁN QUYẾT
- Điều 293, 294, 307, 308 Bộ luật tố tụng dân sự;
- Điều 122, 318, 322, 717, 719 của Bộ luật Dân sự năm 2005;
- Mục 91 và 95 của Luật các tổ chức tín dụng 2010;
- Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí.
Quản lý:
1. Sửa Bản án thương mại sơ thẩm số 05/2016/KDTM-ST ngày 13/9/2016 của Tòa án nhân dân quận NTL, thành phố Hà Nội;
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại Cổ phần E đối với Công ty Cổ phần Q về “Tranh chấp phát sinh từ Hợp đồng tín dụng”;
3. Buộc Công ty Cổ phần Q thanh toán cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần E số nợ gốc và lãi phát sinh theo Hợp đồng tín dụng số 1701LAV201101190 ngày 14/11/2011; Hợp đồng nhận nợ số 1701-LDS-201102282 ngày 14/11/2011, cụ thể:
- Nợ gốc: 3.100.000.000 (ba tỷ một trăm triệu) đồng;
- Lãi trong hạn: 1.725.537.501 (một tỷ bảy trăm hai mươi lăm triệu năm trăm ba mươi bảy nghìn năm trăm mốt) đồng;
- Tiền lãi chậm nộp: 689.922.222 (sáu trăm tám mươi chín triệu chín trăm hai mươi hai nghìn hai trăm hai mươi hai) đồng. Tổng số tiền: 5.515.459.723 (năm tỷ năm trăm mười lăm triệu bốn trăm năm mươi chín nghìn bảy trăm hai mươi ba) đồng.
Kể từ sau ngày xét xử sơ thẩm, người phải thi hành án tiếp tục chịu lãi của khoản nợ gốc theo mức đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng, tương ứng với thời gian trả chậm cho đến khi chấp hành xong khoản nợ gốc. .
Trường hợp bản án có hiệu lực pháp luật mà Công ty cổ phần Q không trả hoặc trả không đầy đủ tiền gốc và lãi phát sinh từ hợp đồng tín dụng thì Ngân hàng thương mại cổ phần E có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án tiến hành thi hành án. phát mại chứng khoán để đòi nợ, cụ thể là quyền sử dụng lô đất ở diện tích 58,70 m2, hình thức sử dụng riêng và toàn bộ tài sản trên đất tại TT QL, phường QL, quận HBT, TP. hà nội. Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở do Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội cấp ngày 24/7/2002 đứng tên ông Nguyễn Duy T và bà Đỗ Thị Q. Hợp đồng thế chấp số 2245.2011/HĐTC có công chứng của Ngày 11/11/2011 tại Phòng công chứng số 3- TP Hà Nội Hà Nội. Đăng ký giao dịch bảo đảm ngày 14/11/2011 tại Văn phòng đăng ký nhà đất UBND huyện HBT.
Bác bỏ các yêu cầu khác của đương sự.
4. Về án phí:
- Ngân hàng TMCP E hoàn trả số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 57.300.000 (năm mươi bảy triệu ba trăm nghìn) đồng theo Biên lai thu số 0003266 ngày 05/6/2015 cho Chi cục THADS huyện NTL, TP Hà Nội; - Công ty cổ phần Q chịu 113.520.000 (một trăm mười ba triệu năm trăm hai mươi ngàn) đồng án phí thương mại sơ thẩm. Nhận lại 200.000 đồng (hai trăm nghìn) tiền tạm ứng án phí phúc thẩm theo biên lai số 0006606 ngày 12/10/2016 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện NTL, thành phố Hà Nội . Do đó, Công ty cổ phần Q còn phải nộp 113.320.000 (một trăm mười ba triệu ba trăm hai mươi nghìn) đồng án phí;
- Ông Nguyễn Duy T và bà Đỗ Thị Q mỗi người được hoàn trả 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí phúc thẩm theo số Biên nhận Thi hành án dân sự huyện NTL, TP Hà Nội.
Bản án phúc thẩm được xét xử công khai và có hiệu lực kể từ ngày được giao.

Bản án số 16/2017/kdtm-pt
TÒA ÁN PHỔ THÔNG CẤP CAO TẠI TP.HCM
Án 29/2017/KDTM-PT NGÀY 14/08/2017 VỀ VIỆC TỐ CÁO TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA GIÁM ĐỐC CÔNG TY
Ngày 14/08/2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử phúc thẩm công khai vụ án thương mại thụ lý số: 01/2017/TLPT-KDTM ngày 03/01/2017 về tranh chấp “Về dân sự”. trách nhiệm của người đứng đầu công ty”.
Do Bản án thương mại sơ thẩm số 857/2016/KDTM-ST ngày 19/8/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo. Theo Quyết định kháng nghị vụ án số 175/2017/QĐ-PT ngày 03/4/2017 giữa các bên:
* Người làm đơn: Ông Nguyễn Văn H.
Trú quán tại: Lầu 2-202, số 60 NT, P.BT, Q.1, TP.HCM.
- Người đại diện theo ủy quyền của người nộp đơn: Bà Đặng Thị Ngọc L.
Trú quán: Số 162/10 Nguyễn Văn Lượng, P.17, Q.Gò Vấp, TP.HCM (theo giấy ủy quyền ngày 23/6/2017)
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Bà Phạm Kim A - Luật sư Công ty luật Kim Anh, thuộc Đoàn Luật sư TP.HCM.
* Bị đơn: Ông Kakazu S. Trú quán tại: Số 23 TKH, Phường BN, Quận 1, TP.HCM.
- Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Hoàng Ngọc Q.
Trụ sở tại: 93/1017 LD, phường 6, quận GV, TP.HCM (theo giấy ủy quyền ngày 27/11/2015).
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Bà Nguyễn Thị Lệ D - Luật sư Công ty luật LNT và thành viên, Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Đầu tiên. Anh NLQ1.
Trú quán tại: Số 02-17-1-1605 Akasaka, Minato-Ku, Tokyo, Japan (Nhật Bản).
2. Anh NLQ2.
Trú quán tại: Số 06-39-33 Izumi, Kumamoto City, Japan (Nhật Bản). 3. Công ty NLQ3.
Địa chỉ trụ sở chính: Số 351/31 NTL, Phường 13, Quận BT, TP.HCM.
- Người đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thu H1.
Trú quán: Số 245 XV NT, Phường 17, Quận BT, TP.HCM (theo giấy phép ngày 07/6/2017). 4. Công ty NLQ4.
Địa chỉ trụ sở chính: Số 11 Bis NGT, Phường 16, Quận 3, TP.HCM.
- Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phạm Tuấn H2.
Trụ sở tại: 706 PVT, Phường 10, Quận GV, TP.HCM (theo giấy ủy quyền ngày 19/04/2017). * Người kháng cáo: Bị đơn - Ông Kakazu S.
NỘI DUNG TÌNH HUỐNG
Người làm đơn là ông Nguyễn Văn H nộp:
Ông Kakazu S được bổ nhiệm làm Phó Chủ tịch Hội đồng quản trị (HĐQT) kiêm Tổng Giám đốc Công ty NLQ4 (Công ty STT) từ tháng 9/2014. Ông Kakazu S đã thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao trái quy định của pháp luật. Điều lệ Công ty, gây thiệt hại cho Công ty STT. Vì vậy, anh H hỏi:
1. Tuyên bố hợp đồng thuê văn phòng số 2415-HĐTVP/2015/PVM SG- SGTTC ngày 06/05/2015 giữa Công ty STT và Công ty NLQ3 (Công ty NLQ3) vô hiệu do người nhận thầu là ông Kakazu S không có thẩm quyền, do Đại hội đồng cổ đông (ĐHCĐ) của Công ty quyết định.
2. Yêu cầu ông Kakazu S bồi thường 1.483.954.720 đồng bao gồm cả tiền bồi thường thiệt hại
Không áp dụng thiệt hại do việc ký kết trái pháp luật Hợp đồng thuê văn phòng số 2415-HĐTVP/2015/PVM SG-SGTTC để chuyển trụ sở từ số 25 P, Quận 1 về số 11bis NGT, Quận 3, TP.HCM Ý kiến Đại hội đồng cổ đông từ tháng 6/2015 đến tháng 11/2015 là: 1.017.094.720 đồng (gồm chi phí thuê mặt bằng 877.050.720 đồng và chi phí sửa sang lại mặt bằng 140 044.000 đồng).
Thiệt hại 72.000.000 đồng (trong đó có hành vi sử dụng lao động nước ngoài không có giấy phép lao động, bị thanh tra Sở Lao động - Thương binh và Xã hội TP.HCM xử phạt 60.000.000 đồng và sử dụng lái xe tham gia kinh doanh vận tải không theo hợp đồng lao động, bị thanh tra Sở Giao thông vận tải TP.HCM xử phạt 12.000.000 đồng.
Thiệt hại 384.160.000 đồng do việc ký hợp đồng với xe của hiệp hội taxi không tuân thủ quy định của pháp luật gây hậu quả nghiêm trọng cho công ty.
Bị đơn, ông Kakazu S đã đệ trình:
Việc tuyển dụng và bổ nhiệm cán bộ quản lý của ông Kishi Kentaro, quốc tịch Nhật Bản giữ chức vụ Giám đốc Tổ chức và Hành chính, thuộc thẩm quyền của Tổng Giám đốc, trên cơ sở đề xuất của bộ phận nhân sự. Đối với hoạt động hiệp hội taxi, đây là chính sách thương mại được công ty STT thực hiện từ năm 2008, trước khi ông Kakazu S trở thành tổng giám đốc. Do đó, các quyết định xử phạt của Sở Giao thông vận tải và Sở LĐ-TB-XH TP.HCM không phải do lỗi của ông Kakazu S. Việc thuê văn phòng tại 11bis NGT, Q.3, TP.HCM TP do nhu cầu quản lý tập trung để quản lý các công ty trực thuộc về một nơi, chi phí thuê do 3 đơn vị chi trả gồm: Công ty STT và 2 đơn vị trực thuộc là Công ty BVLV và Công ty TMDLSG. Trụ sở công ty STT tại số 25 P hiện đã xuống cấp, công ty đang tiến hành đo đạc, làm thủ tục đề nghị UBND TP.HCM chuyển từ hình thức thuê đất hàng năm sang thuê đất 50 năm và sửa chữa trụ sở. việc sửa chữa và hoàn thiện pháp lý quyền sử dụng đất xong, Công ty sẽ chuyển về trụ sở cũ.
Về việc yêu cầu chấm dứt Hợp đồng thuê văn phòng số 2415-HĐTVP/2015/PVM SG-SGTTC ngày 06/05/2015 giữa NLQ3 và STT. Đây là yêu cầu bổ sung của nguyên đơn, không liên quan đến quan hệ pháp luật tranh chấp ban đầu. Vì ông Kakazu S chấp hành nghiêm chỉnh quy định của pháp luật và Điều lệ Công ty STT nên không đồng ý với yêu cầu của ông H.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Công ty NLQ4 trình bày: Công ty STT không bị thiệt hại nên không yêu cầu bồi thường. Việc ký hợp đồng liên kết taxi là chủ trương của hãng từ năm 2008, nhằm mục đích quảng bá thương hiệu, không vì lợi nhuận nên không có thiệt hại. Việc di dời trụ sở chỉ là tạm thời để sửa chữa, hoàn tất thủ tục thuê mặt bằng hợp pháp. Hợp đồng thuê trụ sở số 2415-HĐVP/2015/PVM SG-SGTTC ngày 06/05/2015 phù hợp với quy định của pháp luật nên có hiệu lực thi hành của pháp luật. Công ty STT không đồng ý chấm dứt hợp đồng theo yêu cầu của ứng viên.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Công ty NLQ3 trình bày: Khi ký kết Hợp đồng thuê trụ sở làm việc số 2415-HĐTVP/2015/PVM SG-SGTTC ngày 05/06/2015, các bên đều có tư cách pháp nhân và tuân theo quy định của pháp luật. Do đó, công ty NLQ3 không đồng ý chấm dứt hợp đồng theo yêu cầu của nguyên đơn.
Bản án sơ thẩm số 857/2016/KDTM-ST ngày 19/8/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Căn cứ Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Đạo luật công ty 2014; Bộ luật Dân sự năm 2005; Trình tự án phí, lệ phí và bản án:
1. Hợp đồng số 2415-HĐTVP/2015/PVM SG-SGTTC giữa NLQ3 và STT ký ngày 06/05/2015 hết hiệu lực. 2. Ông Kakazu S có trách nhiệm bồi thường cho công ty STT 1 483 954 720 đồng.
3. Đình chỉ giải quyết yêu cầu bồi thường: Yêu cầu công ty BVLV bồi thường khoản tiền đặt cọc 48.000.000 đồng, bồi thường 4 tháng lương thử việc cho ông Nguyễn Văn P (Giám đốc BVLV) là 66.000.000 đồng16 907.650 đồng và thiệt hại do việc trả lương cho ông P. Ông Phạm Tuấn H2 giữ chức vụ Phó tổng giám đốc công ty.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo đúng quy định của pháp luật. Ngày 26/8/2016, người đại diện theo ủy quyền của ông Kakazu S có đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án giải quyết các vấn đề sau: HĐTV 2015/ PVM SG- SGTTC vô hiệu và không cam kết bồi thường cho STT theo quyết định của Hội đồng quản trị. bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của ông Kakazu S xác nhận công ty STT đã bị thanh tra Sở LĐ-TB&XH và thanh tra Sở GTVT TP.HCM phạt vì vi phạm luật. . chính xác như tuyên bố của người nộp đơn. Công ty STT trình bày: Công ty không bị thiệt hại gì do hoạt động của hiệp hội taxi gây ra. Số tiền 160.000 đồng/xe/tháng là thu nhập từ hoạt động taxi liên lạc, sau khi trừ các khoản chi phí, công ty STT không có lãi. Trước khi ký kết hợp đồng thuê trụ sở số 2415-HĐTVP/2015/PVM SG-SGTTC, Hội đồng quản trị công ty STT đã thống nhất chuyển trụ sở đăng ký từ 25 P, Quận 1 về 11 bis NGT, Quận 3. Vì vậy, ngày 06/05/2015, ông Kakazu S đã ký hợp đồng. Do hợp đồng trên là đúng quy định của pháp luật nên công ty STT không chấp nhận yêu cầu của người làm đơn. Công ty NLQ3 có ý kiến như sau: Không đồng ý chấm dứt hợp đồng thuê trụ sở làm việc số 2415-HĐTVP/2015/PVM SG-SGTTC vì hợp đồng đã được ký kết đúng quy định của pháp luật.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn giới thiệu: Chính sách khớp lệnh taxi đã được Công ty STT thực hiện từ năm 2013, thực chất là để bán thương hiệu chứ không phải khớp lệnh với taxi. Hiển thị giá taxi là trách nhiệm của người lái xe. Sau khi ông H gửi đơn khiếu nại ra Tòa án, Công ty STT mới thực hiện các bước yêu cầu UBND TP.HCM chuyển hợp đồng thuê đất hàng năm thành hợp đồng thuê đất có thời hạn 50 năm. Tuy nhiên, ông H không được biết chủ trương này do ban giám hiệu chưa họp.
Luật sư của Bị đơn trình: Yêu cầu Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của Bị đơn, bác yêu cầu của Nguyên đơn với lý do: Bản án sơ thẩm không căn cứ vào thực tế khách quan, yêu cầu bồi thường không căn cứ vào báo cáo tài chính của Doanh nghiệp STT để giải quyết cụ thể trường hợp: Trụ sở chính tại 25 P bị hư hỏng cần sửa chữa, người lao động tạm thời chuyển về làm việc tại 11 bis NGT. Về mặt pháp lý, theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, trụ sở chính của Công ty STT vẫn tại địa chỉ số 25 P, Công ty STT chưa đăng thông báo về việc chuyển trụ sở Công ty về 11 bis NGT, Theo Điều lệ và đề nghị ngày 07/11/2014 của Vụ Tổ chức - Hành chính, ông Kakazu đã được Ủy ban Chứng khoán TP.HCM xác nhận. S đã bổ nhiệm ông Kishi Kentaro làm Cơ quan có thẩm quyền. Quyết định xử phạt vi phạm hành chính của Sở LĐ-TB-XH và Sở GTVT TP.HCM là phạt tiền đối với công ty STT chứ không phải cá nhân ông Kakazu S., trong đó xác định ông S.T. Kakazu S chịu trách nhiệm cá nhân. Theo quy định tại Điều lệ công ty STT, ông Kakazu S có thẩm quyền ký các hợp đồng xe liên quan đến taxi vì đây là hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty. Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là phạt tiền đối với công ty STT chứ không phải phạt cá nhân đối với ông Kakazu S. Hợp đồng thuê trụ sở số 2415-HĐTVP/2015/PVM SG-SGTCC mặc dù được ký trước khi có quyết định xử phạt của hội đồng quản trị, được sự nhất trí của hội đồng quản trị và việc chuyển trụ sở đăng ký từ số 25 P về 11 NGT theo nghị quyết của hội đồng quản trị nên hợp đồng trên đây có giá trị pháp lý. Luật sư bào chữa cho nguyên đơn trình bày: Căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, có cơ sở kết luận việc di dời trụ sở công ty từ 25 P về 11 bis NGT là có thật. Tuy nhiên, theo điều lệ công ty và luật công ty, việc chuyển trụ sở đăng ký phải do đại hội đồng cổ đông quyết định. Do đó, ông Kakazu S không có quyền quyết định nên hợp đồng thuê văn phòng vô hiệu. Về vấn đề tuyển dụng nhân lực, ông Kakazu S đã bổ nhiệm ông Kishi Kentaro giữ chức vụ Giám đốc Tổ chức-Hành chính và sử dụng lao động không có hợp đồng lao động nên bị cơ quan nhà nước xử phạt vi phạm hành chính, đây là trách nhiệm phải chịu. của ông Kakazu S. Công ty STT đã nộp phạt nên ông Kakazu S phải bồi thường số tiền này cho công ty. Do không tuân thủ quy định trong việc ký kết hợp đồng liên kết taxi dẫn đến thiệt hại cho công ty STT, ông Kakazu S phải bồi thường chính đáng cho công ty. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của Bị đơn, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại TP.HCM nhận xét: Việc chuyển trụ sở thuộc thẩm quyền của ĐHĐCĐ nhưng ông Kakazu S đã ký hợp đồng và chuyển trụ sở là trái pháp luật nên cấp về yêu cầu sơ thẩm của Nguyên đơn, tuyên bố hợp đồng thuê văn phòng vô hiệu và buộc ông Kakazu S phải bồi thường thiệt hại do việc ký kết hợp đồng bất hợp pháp, là có cơ sở. Về yêu cầu bồi thường thiệt hại do vi phạm hành chính, do ông Kakazu S không thực hiện đúng nhiệm vụ của mình nên Công ty STT đã bị cơ quan nhà nước phạt tiền, Công ty STT đã nộp phạt nên ông Kakazu S phải bồi thường như ban đầu . bản án sơ thẩm đã có lý. Về đơn kiện doanh nghiệp liên kết taxi, các bên đều xác nhận chủ trương liên kết taxi đã được công ty STT triển khai từ năm 2013, trước khi ông Kakazu S làm Tổng giám đốc. Ông S tuy có hành vi vi phạm nhưng cố ý không gây thiệt hại cho Công ty nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo này của ông Kakazu S, chấp nhận các quyết định khác của bản án sơ thẩm. NHẬN XÉT CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, sau khi nghe tranh luận của các bên liên quan và ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại TP.HCM. Minh, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1] Về quan hệ pháp luật, tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: người làm đơn là ông Nguyễn Văn H, thành viên HĐQT, đại diện 21% cổ phần của công ty STT, yêu cầu ông Kakazu S, tổng giám đốc, hoặc cố vấn pháp luật đại diện cho công ty STT bồi thường thiệt hại mà công ty STT phải gánh chịu nên tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là “Tranh chấp về trách nhiệm dân sự của giám đốc công ty” và giải quyết theo quy định của pháp luật. quy định tại Mục 161 của Đạo luật công ty; khoản 5 Điều 30 và điểm a khoản 1 Điều 37 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
Tại phiên tòa, đại diện Công ty STT đã cung cấp văn bản yêu cầu xét xử qua công văn ngày 12/6/2017 của ông NLQ2, thành viên Hội đồng quản trị STT. Do ông NLQ2 có quốc tịch Nhật Bản nên giấy tờ trên chưa được hợp pháp hóa lãnh sự theo quy định của pháp luật Việt Nam nên không có giá trị. Tuy nhiên, quan hệ pháp luật tranh chấp là “Tranh chấp trách nhiệm của người đứng đầu công ty”, không liên quan đến ông NLQ2. Do đó, việc xét xử vắng mặt ông NLQ2 không ảnh hưởng đến quyền lợi của các đương sự. [2] Xét đơn kháng cáo của ông Kakazu S, kết luận: Hội đồng quản trị Công ty STT có 5 thành viên, gồm: Ông NLQ1, Chủ tịch Hội đồng quản trị; ông Kakazu S, Phó Chủ tịch HĐQT, kiêm Tổng Giám đốc Công ty; ông Nguyễn Văn H; Anh NLQ1 và anh NLQ2.
a) Về yêu cầu bồi thường 1.017.094.720 đồng do phải di chuyển trụ sở từ số 25 P, Quận 1 về tòa nhà PSG tại số 11bis NGT, Quận 3, xét thấy:
a1. Ngày 06/05/2015, ông Kakazu S đã thay mặt Công ty STT ký kết hợp đồng thuê văn phòng số 2415-HĐTVP/2015/PVM SG-SGTTC với Công ty NLQ3. Ngày 21/5/2015, Ông Kakazu S đại diện theo ủy quyền của Ông NLQ1, Chủ tịch HĐQT Công ty STT đã tổ chức họp lấy ý kiến các thành viên HĐQT về tờ trình ĐHĐCĐ để lấy ý kiến của các thành viên HĐQT. lấy ý kiến cổ đông bằng văn bản thay đổi địa chỉ trụ sở công ty và bổ sung ngành, nghề kinh doanh. Tại điểm 5.1, mục 5, biên bản họp Hội đồng quản trị ngày 21/5/2015 ghi: “Nhất trí về việc lấy ý kiến cổ đông bằng văn bản về việc thay đổi địa chỉ hiện tại của công ty sang địa chỉ mới. tại: Tầng trệt Tòa nhà PSG số 11bis NGT, Phường 6, Quận 3, TP.HCM”. Biên bản đã được 5/5 số thành viên Hội đồng quản trị ký tên. Sau đó, ngày 23/6/2015, ông Kakazu S thay mặt HĐQT Công ty ký vào Phiếu lấy ý kiến cổ đông về nội dung: Chuyển trụ sở Công ty từ 25 P, Quận 1 về tầng trệt tòa nhà PSG tại số 11bis NGT, Quận 3. Tại phần IV của Biên bản kiểm phiếu xin ý kiến cổ đông bằng văn bản số 01/2015/ĐHĐCĐ-BB ngày 08/07/2015 với nội dung: " Thông qua việc thay đổi thành viên Công ty trụ sở chính từ địa chỉ: 25 P, phường NTB, quận 1, TP.HCM, Việt Nam đến: Tầng trệt tòa nhà PSG số 11bis NGT, phường 6, quận 3, TP.HCM, Việt Nam”. Biên bản đã được 5/5 số thành viên Hội đồng quản trị ký tên. Căn cứ Biên bản kiểm phiếu trên, ngày 09/7/2015, Ông Kakazu S thay mặt Hội đồng quản trị Công ty đã ký Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông số 18/2015/NQ-ĐHĐCĐ với nội dung: “Thông qua việc thay đổi trụ sở đăng ký của công ty từ Địa chỉ: 25 P, Phường NTB, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam đến: Tầng trệt Tòa nhà PSG tại 11bis NGT, Phường 6, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. a2. Ngày 30/7/2015, Sở Tài nguyên và Môi trường TP.HCM có công văn số 5429/TNMT-QLSDD gửi Ủy ban nhân dân TP.HCM, trong phần hiện trạng và kế hoạch sử dụng đất có nội dung: “...Công ty có kế hoạch sửa chữa, hiện đại hóa, xây dựng lại trụ sở, đề nghị điều chỉnh (tăng) thời hạn thuê mặt bằng lên 50 năm, nộp tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê. Tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn xác nhận Công ty STT đã làm thủ tục sửa chữa trụ sở, đề nghị UBND TP.HCM chuyển nhượng cho công ty với thời hạn 50 năm là ông Kakazu S. giới thiệu nhưng công ty STT đã thực hiện các công việc trên sau khi ông H khởi kiện ra tòa, tuy nhiên hồ sơ thể hiện ông H khởi kiện ngày 16/9/2015 sau khi Sở Tài nguyên và Môi trường TP. Thành phố ban hành công văn số 5429/TNMT-QLSDD ngày 30/7/2015 như trên . Vì vậy, phải kết luận việc chuyển trụ sở về 11bis NGT là vì lợi ích của Công ty STT. a3. Từ phân tích nêu tại a1 và a2 trên cho thấy: Mặc dù cuộc họp của Hội đồng quản trị để lấy ý kiến của Đại hội đồng cổ đông sau khi ông Kakazu S ký hợp đồng thuê trụ sở số 2415- HĐVP/2015 /PVM SG-SGTTC ngày 06/05/2015 nhưng có 5/5 thành viên HĐQT dự họp và có ý kiến đồng ý. Thực hiện Hợp đồng thuê văn phòng số 2415-HĐTVP/2015/PVM SG-SGTTC và việc thay đổi địa chỉ tạm thời của Công ty STT đã được Hội đồng quản trị thông qua, ông Kakazu S đã nghiêm túc thực hiện Nghị quyết số 18/2015. /NQ-ĐHĐCĐ của Đại hội đồng cổ đông vì sự cần thiết và lợi ích của Công ty STT; Ông Kakazu S không có tư lợi cá nhân trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng nêu trên nên việc ông H yêu cầu ông Kakazu S bồi thường là không có căn cứ. Vì vậy, kháng cáo của ông Kakazu S về nội dung này là có cơ sở chấp nhận.
b) Đối với Hợp đồng thuê văn phòng số 2415-HĐTVP/2015/PVM SG- SGTTC ngày 06/5/2015 giữa Công ty STT và Công ty NLQ3: Về hình thức, khi ký kết hợp đồng hai bên đã thống nhất về mặt pháp lý. trạng thái; người ký kết hợp đồng là người đại diện theo pháp luật của mỗi bên; Trong quá trình tố tụng cũng như tại phiên tòa, các bên trong hợp đồng không có tranh chấp về hợp đồng. Về nội dung, như đã phân tích tại điểm a trên, cuộc họp HĐQT có trách nhiệm lấy ý kiến của ĐHĐCĐ sau khi ông Kakazu S ký hợp đồng thuê văn phòng số 2415-HĐVP/2015/PVM SG- SGTTC ngày 06/5/2015 là không phù hợp nhưng 5/5 thành viên Hội đồng quản trị trong đó có nguyên đơn là ông H đã dự họp và thống nhất trong biên bản họp Hội đồng quản trị tháng 5. ngày 21 tháng 01 năm 2015 và kiểm phiếu của Hội đồng quản trị ngày 08 tháng 07 năm 2015. Như vậy, Hợp đồng thuê trụ sở số 2415-HĐVP/2015/PVM SG-SGTTC ngày 06/05/2015 là phù hợp với quy định về hình thức, việc ký kết hợp đồng là hoàn toàn tự nguyện, đối tượng và nội dung của hợp đồng. không vi phạm điều cấm của pháp luật, không vi phạm đạo đức xã hội. Vì vậy, căn cứ Điều 122 Bộ luật Dân sự năm 2004 liên quan đến điều kiện có hiệu lực của hành vi dân sự thì hợp đồng thuê trụ sở làm việc số 2415-HĐVP/2015/PVM SG-SGTTC nêu trên có hiệu lực pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố hợp đồng thuê trụ sở số 2415-HĐTVP/2015/PVM SG-SGTTC vô hiệu. Do đó, cần phải chấp nhận cuộc gọi của bạn Kakazu S. c) Đối với kháng cáo về yêu cầu bồi thường thiệt hại liên quan đến hoạt động taxi liên kết, xét thấy:
c1. Việc ngày 7/7/2015, Sở Giao thông Vận tải TP.HCM ra Quyết định số 2791/QĐ-SGTVT về việc thu hồi 49 phương tiện làm giả phù hiệu xe taxi là có thật. Nguyên đơn cho rằng do hành vi vi phạm của ông Kakazu S đã gây thiệt hại cho công ty STT là 384.160.000 đồng. Theo hợp đồng, số tiền tài xế phải nộp cho công ty là thu nhập theo hợp đồng của tài xế. Nguyên đơn cho rằng số tiền 384.160.000 đồng là tiền công ty STT thu lợi nhưng không có chứng cứ chứng minh. Trong khi tại Báo cáo doanh thu, chi phí, lợi nhuận xe liên kết do Phòng Tài chính Kế toán STT lập ngày 18/8/2016, được Tổng Giám đốc STT xác nhận với nội dung: Chi phí hoạt động liên kết taxi bao gồm: lương tổng đài viên, lương nhân viên bến xe, taxi lương trung tâm, chi phí thuê thiết bị đầu cuối kinh doanh taxi, chi phí bộ đàm taxi. Hoạt động của các xe trực thuộc công ty năm 2015 hiện đang lỗ 997.977 đồng/xe/tháng. Tuy nhiên, nguyên đơn không thừa nhận nội dung tường trình trên, đồng thời cũng không đưa ra được căn cứ chứng minh số tiền thiệt hại thực tế do việc thu hồi phù hiệu xe taxi gây ra mà chỉ xác định Công ty STT bị mất thu nhập trong 2 tháng (28 ngày/tháng). ) theo nguyên tắc: (140.000 đồng/xe x 28 ngày/tháng x 49 xe) x 2 tháng = 384.160.000 đồng và xác định số tiền trên là tiền lãi Công ty STT bị lỗ là không có cơ sở.
Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận việc bắt taxi là chính sách được công ty thực hiện từ năm 2013, trước khi ông Kakazu S là giám đốc điều hành. Việc sau khi lên làm tổng giám đốc, ông Kakazu S thành lập hiệp hội taxi cũng là thực hiện nghị quyết của đại hội đồng cổ đông, ông Kakazu Shugo không tự ý ràng buộc taxi. Theo đó, kháng cáo của ông Kakazu là có cơ sở và được chấp nhận.
đ. Đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại liên quan đến việc làm, nhận thấy rằng:
đ1. Ngày 07/11/2014, Ông Kakazu S đã ban hành Quyết định số 09/QĐ-HĐQT bổ nhiệm Ông Kishi Kentaro giữ chức vụ Trưởng phòng Tổ chức Hành chính. Ngày 26/01/2015, Thanh tra Sở Lao động - Thương binh và Xã hội TP.HCM đã ra Quyết định số 658/QĐ-XPVPHC xử phạt vi phạm hành chính đối với Công ty STT về hành vi sử dụng lao động nước ngoài. không có giấy phép lao động, Công ty sẽ bị phạt 60.000.000 đồng. Ngày 24/6/2015, Thanh tra Sở Giao thông vận tải TP.HCM ra quyết định số A167162, xử phạt Công ty STT về hành vi sử dụng lái xe tham gia hoạt động vận tải không có hợp đồng lao động theo quy định, mức phạt 5.000.000 đồng.
đ2. Ông Kakazu S là Tổng Giám đốc, theo Luật Doanh nghiệp và Điều lệ Công ty STT, Tổng Giám đốc có toàn quyền bổ nhiệm cán bộ, ký kết hợp đồng với người lao động nhưng phải tuân thủ các quy định của pháp luật và Điều lệ công ty. Giả thuyết cho rằng việc tuyển dụng ông Kishi Kentaro do phòng Tổ chức hành chính đề xuất là không có cơ sở, bởi ông Kakazu S đại diện theo pháp luật của công ty STT đã có lỗi trong việc tuyển dụng ông Kishi Kentaro. và việc sử dụng lái xe nhưng không ký hợp đồng lao động đã bị cơ quan nhà nước xử phạt vi phạm hành chính. Do công ty STT đã nộp phạt theo phán quyết trên nên ông Kakazu S phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại này. Cấp sơ thẩm buộc ông Kakazu S phải bồi thường số tiền 65.000.000 đồng là có căn cứ và đúng pháp luật. Vì vậy, kháng cáo của ông Kakazu S không thành.
đ. Về việc kháng cáo về việc bồi thường 7.000.000 đồng do vi phạm quy định về bảng giá cước taxi, cho rằng: Ngày 24/6/2015, Thanh tra Sở Giao thông vận tải TP.HCM đã ra quyết định số STT Phạt 7.000.000 VND đối với Công ty do không tuân thủ nội dung hiển thị. Tại Mục 6.2 Điều 6 của Hợp đồng thuê xe và Khoản 4 Mục II của Hợp đồng thuê xe kèm theo có quy định rõ: Trong quá trình thực hiện hợp đồng, chủ xe đồng ý chịu hoàn toàn trách nhiệm về mọi hành vi vi phạm của mình. các tài xế do anh ta giới thiệu/gợi ý trong khi điều hành hoạt động kinh doanh phương tiện liên quan. Tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn khẳng định bảng giá taxi do tài xế chịu trách nhiệm. Tòa án xét xử chỉ dựa vào lời trình bày của nguyên đơn để xác định việc không kê khai giá cước taxi là lỗi của ông Kakazu S và tuyên buộc ông Kakazu S phải bồi thường 7.000.000 đồng là không đúng. Theo đó, kháng cáo của ông Kakazu S là có cơ sở và được chấp nhận.
Qua phân tích tại điểm [2] nêu trên, thấy rằng kháng cáo của ông Kakazu S và ý kiến của người bào chữa cho ông Kakazu S là có cơ sở chấp nhận một phần; không chấp nhận nội dung trình bày của luật sư nguyên đơn; chấp nhận một phần ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại TP.HCM đối với kháng cáo của ông Kakazu S.
Do đơn kháng cáo được chấp nhận một phần nên ông Kakazu S không phải chịu án phí phúc thẩm. Nguyên đơn, bị đơn phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì những lý do trên,
PHÁN QUYẾT
Căn cứ Điều 308, 309 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Mục 32, Khoản 1 Mục 34 Điều lệ Công ty NLQ4, Mục 160, 161 Luật Doanh nghiệp 2014; Điều 307, 605 BLDS 2005; Trình tự về án phí, lệ phí.
1. Chấp nhận một phần kháng cáo của ông Kakazu S. 2. Sửa một phần Bản án thương mại sơ thẩm số 857/2016/KDTM-ST ngày 19/8/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.
3. Chấp nhận một phần yêu cầu của ông Nguyễn Văn H yêu cầu ông Kakazu S bồi thường cho NLQ4. Buộc ông Kakazu S phải bồi thường cho công ty NLQ4 65.000.000 (sáu mươi lăm triệu) đồng, trong đó 60.000.000 đồng do sử dụng lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam không có giấy phép lao động và 5.000.000 đồng do sử dụng tài xế tham gia kinh doanh vận tải không có hợp đồng lao động theo quy định đã bị Sở Lao động - Thương binh và Xã hội và Sở Giao thông vận tải TP.HCM xử phạt. 4. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn H đối với việc yêu cầu tuyên bố vô hiệu Hợp đồng số 2415-HĐTVP/2015/PVM SG-SGTTC ngày 06/5/2015 giữa Công ty NLQ4.
5. Không chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Văn H khởi kiện ông Kakazu S bồi thường cho Công ty NLQ4 1.408.254.720 đồng, trong đó có 1.017.094.720 đồng do ký hợp đồng chuyển trụ sở trái luật tại 25 P, phường NTB, quận 1 tầng trệt tòa nhà PSG số 11bis NGT, phường 6, quận 3, TP.HCM; 384.160.000 đồng do ký hợp đồng liên kết taxi trái luật và 7.000.000 đồng do bị phạt do không thực hiện đúng nội dung trong bảng giá cước taxi.
6. Đình chỉ việc giải quyết đơn khởi kiện của ông Nguyễn Văn H yêu cầu ông Kakazu S bồi thường số tiền 48.000.000 đồng tiền đặt cọc của công ty BVLV, 66.000.000 đồng tiền lương của 4 tháng thử việc của ông Nguyễn Văn. P, Giám đốc BVLV và 16.907.650 đồng là tiền lương trả cho ông Phạm Tuấn H2 với chức danh Phó tổng giám đốc công ty NLQ4.
7. Về nghĩa vụ hoãn thi hành án: Kể từ ngày người phải thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành xong bản án thì phải nộp đủ số tiền theo thi hành án. con nợ hàng tháng. bị thi hành án với mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
8. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn Văn H phải nộp 54.247.641 đồng, giữ lại 24.124.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 09731 ngày 10/12/2015 và số ° 09246 ngày 17/12/ 09 2015 từ Cục Thi hành án dân sự TP.HCM, ông H còn phải nộp 30.123.641 (Ba mươi triệu một trăm hai mươi ba nghìn sáu trăm bốn mươi mốt) đồng. Ông Kakazu S phải chịu 3.250.000 (Ba triệu hai trăm năm mươi nghìn) đồng.
9. Về án phí phúc thẩm: Ông Kakazu S không phải chịu và được hoàn trả 200.000 (hai trăm nghìn) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu hồi số 0031049 ngày 01/9/2016 của Tòa án. Cục Thi hành án Dân sự TP.HCM.
10. Đối với tư vấn về thi hành án dân sự: trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại mục 2 luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền đồng ý cho thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 11. Hiệu lực của bản án: Bản án phúc thẩm này có hiệu lực kể từ ngày giao bản án là 14/8/2017.
Nội dung bài viết:
Bình luận