Tổng hợp bản án về tội rửa tiền

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 248/2022/HS-PT NGÀY 07/07/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN VÀ RỬA TIỀN

Ngày 07 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 210/2022/TLPT-HS ngày 26 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo Lê Minh H cùng đồng phạm do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 28/2022/HS-ST ngày 22 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Bị cáo có kháng cáo:

1. Lê Minh H (tên gọi khác: Xị); sinh ngày: 21/9/2000, tại tỉnh Quảng Trị; nơi ĐKNKTT và chỗ ở hiện nay: Khu phố 1, phường Y, thị xã Q, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Văn H1, sinh năm: 1972 (đã chết) và bà: Ngô Thị T, sinh năm: 1974; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 18/10/2020 đến ngày 06/02/2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn từ tạm giam sang bảo lĩnh.
2. Đỗ Tư Tr (tên gọi khác: Không); sinh ngày: 11/12/1991, tại tỉnh Quảng Trị; nơi ĐKNKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn Đ (RT cũ), xã T1, huyện T2, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: Thợ làm vàng; trình độ học vấn: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đỗ Văn H2, sinh năm: 1961 và bà: Hồ Thị Th, sinh năm: 1964; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 21/01/2021, đến ngày 30/01/2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn từ “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. 3. Hoàng Như L (tên khác: không); sinh ngày: 24/10/1988, quê quán Quảng Trị; nơi đăng ký kinh tế và chỗ ở hiện nay: Số 635 đường L1, phường D1, thành phố D2, tỉnh Quảng Trị; Nghề nghiệp: Nhân viên y tế; Trình độ học vấn: lớp 12/12; Dân tộc Kinh; giới tính nam; không tôn giáo; Tiếng Việt; con ông: Hoàng Như M, sinh năm: 1964 và bà: Nguyễn Thị L2, sinh năm: 1966; có vợ: Lê Thị L3, sinh năm 1990 và 02 con: Có 02 con sinh năm 2016 và 2020; tiền án: Không; Người bị bắt, tạm giữ từ ngày 18 tháng 10 năm 2020 đến ngày 06 tháng 2 năm 2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn từ tạm giam sang bảo lãnh tại ngoại.
4. Đoàn Quang D3 (Tên khác: Không); sinh ngày: 12/10/1993, tại tỉnh Quảng Trị; Quê quán và chỗ ở hiện nay: Thôn D, xã T3, huyện T2, tỉnh Quảng Trị; Nghề nghiệp: Nhân viên hợp đồng sửa chữa điện nước Trung tâm y tế huyện T2; Trình độ học vấn: lớp 12/12; Dân tộc Kinh; giới tính nam; không tôn giáo; Tiếng Việt; con ông: Đoàn Quang Ng, sinh năm: 1968 và bà ngoại: Đoàn Thị Thanh B; vợ con: Không có; tiền án, tiền sự: Không; Người bị tạm giữ từ ngày 18 tháng 10 năm 2020 đến ngày 06 tháng 2 năm 2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn từ tạm giam sang bảo lãnh tại ngoại.
Hơn nữa, trong vụ án còn có người bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không liên quan đến việc kháng cáo nên Tòa án không gặp. NỘI DUNG TÌNH HUỐNG

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến phiên tòa, có thể tóm tắt nội dung vụ án như sau:

1. Về hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” của Lê Minh H: Khoảng tháng 10/2019, Lê Minh H nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền của người khác bằng hình thức chiếm quyền kiểm soát (hack) tài khoản Facebook, sau đó sử dụng tài khoản lấy được giả vờ nhắn tin cho người thân của chủ tài khoản phù hợp để vay tiền, rồi chiếm đoạt. Để thực hiện hành vi phạm tội của mình, H đã mua một đường link trên mạng Internet của một người lạ, có tên miền: (https://biettaitihon12020.wixsite.com” chứa giao diện của trang web giống như chương trình truyền hình “Biệt tài tí hon” đã được phát sóng trên các kênh truyền hình, sau đó H up link này lên các chương trình có lượng người xem cao nhằm tạo điều kiện cho nạn nhân dễ dàng tiếp thu Nhập vào giao diện giả mạo, điền thông tin cá nhân vào link này và nhấn vào nút bình chọn, thông tin này sẽ được chuyển đến phần Website với đường dẫn “http://notepad.pw/ginblack 24” do H. tạo ra để lưu giữ tài khoản và mật khẩu, theo đó H sẽ nắm quyền kiểm soát tài khoản Facebook này. Sau khi chiếm quyền điều khiển tài khoản, H đổi mật khẩu, xóa thông tin xác thực chủ tài khoản Facebook rồi tìm hiểu, khai thác thông tin về mối quan hệ của chủ tài khoản Facebook bị chiếm với các tài khoản Facebook khác; Sau đó giả danh chủ tài khoản nhắn tin SMS, liên hệ với chủ tài khoản để vay tiền rồi chiếm đoạt.
Để rút tiền mặt mà không bị phát hiện, H khai nhận đã liên hệ với các tài khoản Facebook ảo, có tên: “Bui Thi Nung” hoặc “Bui Thi Nung” với mục đích rửa (rút) số tiền chiếm đoạt từ các tài khoản này. Sau khi nghe H yêu cầu, các tài khoản Facebook này đã đồng ý và cung cấp cho H số tài khoản ngân hàng: 19035423326017 của Techcombank do Bùi Văn Trọng đứng tên để khi có tiền phù hợp sẽ chuyển vào tài khoản rửa tiền này. Chi phí rửa tiền được thống nhất với tỷ lệ H được hưởng 70% và tài khoản trên được hưởng 30% trên tổng số tiền đã rửa, địa điểm nhận tiền là trường cao đẳng, đường NQ, thành phố Q, tỉnh Quảng Trị. . Để xóa dấu vết tội phạm, H và các tài khoản Facebook trên chỉ kết bạn khi lừa tiền và được liên hệ rửa tiền sau khi phạm tội, cả hai đều không có kết bạn trong mục Facebook. Trưa ngày 21/7/2020, tại tiệm Internet Zone Huế, địa chỉ số 5A Đường PC, Phường P, Thành Phố H3, Tỉnh Thừa Thiên Huế, H đã chiếm đoạt tài khoản Facebook “U Vương” của anh Vương Thụy U (ngụ TP. Cộng hòa Đức). Sau đó H sử dụng Facebook này để nhắn tin vào tài khoản Facebook “T4ThuyVuong” của bà Vương Thụy T4, sinh năm 1955, trú tại: 68 đường L4, phường P1, quận H4, TP Hà Nội (chị gái ông Thủy). để vay tiền và cung cấp số tài khoản ngân hàng Techcombank 19035423326017 mang tên Bùi Văn Trọng để bà T4 chuyển tiền. Do không biết tài khoản Facebook của anh trai mình bị hack nên chị T4 đã tin tưởng, đồng ý cho vay và chuyển tiền vào tài khoản hơn 3 lần với tổng số tiền là 390.000 000 đồng (ba trăm chín mươi triệu đồng), cụ thể:

Lần 1: Lúc 14h40 ngày 21/7/2020, bà T4 chuyển số tiền 110.000.000 đồng.
Lần 2: Lúc 16h ngày 21/7/2020, bà T4 chuyển số tiền 230.000.000 đồng.
Lần 3: Lúc 8 giờ 48 phút ngày 22/7/2020, bà T4 chuyển số tiền 50.000.000 đồng. Sau khi biết chị T4 đã chuyển số tiền 110.000.000 đồng vào tài khoản ngân hàng của Bùi Văn Trọng, Lê Minh H đã liên hệ với các tài khoản Facebook ảo có tên: “Bùi Thị Nùng” hoặc “Bùi Thị Nùng” để nhận rửa số tiền 110.000.000 đồng này. . Chủ tài khoản Facebook này đồng ý và thống nhất với H về thời gian, địa điểm và cách thức nhận phần tiền của mình. Chiều ngày 21/7/2020, H theo thỏa thuận trước đó, đón xe taxi từ tiệm Internet Khu Huế ở trường Cao Đẳng, TP Q thì gặp một người phụ nữ (không rõ tên, tuổi, địa chỉ) đi xe SH. . Minh H đọc đúng số tiền và nhận số tiền mặt là: 77.000.000đ (70%) rồi đưa về quê ở Quảng Trị. Sáng ngày 22/7/2020, biết chị T4 đã chuyển thêm 280.000.000 đồng vào tài khoản ngân hàng của Bùi Văn Trọng, H tiếp tục liên hệ Facebook “Bùi Thị Nùng” để rửa tiền và đến gặp anh ta. Chiều cùng ngày, H đón xe taxi đến khu vực chợ thị xã Q, tỉnh Quảng Trị thì gặp người phụ nữ trên xe đang đến, H đọc đúng số tiền và nhận số tiền như đã thỏa thuận: 196.000.000 đồng. Như vậy, trong 2 ngày 21/7/2020 và 22/7/2020, Lê Minh H đã lừa đảo chiếm đoạt của bà Vương Thủy T4 tổng số tiền là 390.000.000 đồng. Toàn bộ số tiền chiếm đoạt được H đã sử dụng vào mục đích cá nhân.
2. Về hành vi “rửa tiền” của Đỗ Tử Tr, Hoàng Như L và Đoàn Quang Đ3:

Trong quá trình điều tra vụ án, căn cứ vào lời khai của bị can Lê Minh H về việc chiếm đoạt số tiền 390.000.000 đồng của chị Vương Thủy T4, cơ quan điều tra đã trích xuất các tài liệu liên quan đến quá trình điều tra vụ án. số tiền 390.000.000 đồng của bà Vương Thủy T4, xác định:

Khoảng nửa đầu tháng 7/2020, anh Đỗ Tú Tr (chủ tiệm internet tại Thôn D (RT cũ), xã T1, huyện T2, tỉnh Quảng Trị) nhận được tin nhắn từ tài khoản Facebook “Luatnhanqua” với nội dung: chào hàng. Để rửa dòng tiền do phạm tội trên mạng mà Tr trả cho dịch vụ là 15% số tiền rửa được. Sau khi nhận được tin nhắn, Đỗ Tú Tr đã liên lạc, trao đổi với Hoàng Như L (L là quản lý IT của quán Tr và thường xuyên mua bán tiền ảo trên mạng) thì L đồng ý tham gia. . Tuy nhiên, số tiền mà Tr nói với L chỉ là 10% trên tổng số tiền đã rửa; còn số tiền được chia, L được hưởng 07% và Tr được hưởng 03% trên tổng số tiền L rửa được. Sau khi thống nhất, Tr nhắn tin cho tài khoản Facebook “Luatnhanqua” đồng ý tham gia phi vụ rửa tiền. Sau khi thống nhất việc rửa tiền với Tr, L rủ Đoàn Quang D3 (công tác tại cơ quan y tế huyện T2, tỉnh Quảng Trị) tham gia, D3 đồng ý, D3 có trách nhiệm chuyển tiền thẳng cho Tr cho Đỗ Tử Tr khi L rửa tiền xong . Số tiền thù lao mà D3 nhận được, L sẽ chia theo số tiền mà L nhận được từ hành vi rửa tiền.
Đầu giờ chiều ngày 21/7/2020, Đỗ Tú Tr nhận được tin nhắn từ Facebook “Luatnhanqua” lừa rửa số tiền 110.000.000 đồng vào số tài khoản 19035423326017 mang tên Bùi Văn Trọng. Sau đó Tr chụp ảnh và gửi tin nhắn qua ứng dụng Telgam cho Hoàng Như L để L rửa tiền thực sự.
Để thực hiện việc rửa tiền, Hoàng Như L sử dụng điện thoại Samsung Galaxy A51 của mình kết nối Internet nhằm thực hiện các mã lệnh trên sàn mua bán tiền ảo có tên là “Remitano” trong phần ứng dụng Rimitano Mobile trên điện thoại Samsung để thực hiện mua bán tiền ảo: ETH/USDT thông qua 02 địa chỉ gmail giao dịch là: “[email protected]” và “[email protected]” mật khẩu đăng nhập: L@2020 để thực hiện mua bán số tiền 110.000.000 đồng với mã giao dịch trên sàn Rimitano, cụ thể như sau:

- “Giaodich12341301539ToAccc946TaiRimitiAlo0869122706”;

- “Giaodich12340901537ToAcce946TaiRimitialo0869122706”.
Ngay sau mua bán tiền ảo thành công Hoàng Như L đã chuyển số tiền này vào tài khoản của mình, đến khoảng 17 giờ ngày 21/7/2020 L đã trực tiếp đưa tiền mặt với số tiền 102.300.000 đồng (đã từ số tiền 7.700.000 đồng = 07%) cho Đoàn Quang Đ3 để Đ3 trực tiếp đến đưa cho Đỗ Tư Tr, sau đó L trả tiền công cho Đằng số tiền 1.000.000 đồng, L hưởng lợi số tiền 6.700.000 đồng. Sau khi nhận tiền từ Đ3, Tr đã liên lạc với cho tài khoản Facebook “Luatnhanqua” để giao tiền thì nhận được tin nhắn là sẽ có một người đàn ông (không rõ tên tuổi, địa chỉ cụ thể) lái xe Taxi (không rõ của hãng xe nào) đến quán của Tr để lấy tiền mặt, sau khi gặp người đàn ông này Tr đã đưa số tiền 99.000.000 đồng, số tiền còn lại 3.300.000 đồng là tiền Tr hưởng lợi từ tiền công.
gồm:

* Thu giữ và xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tạm giữ - Thu của Lê Minh H gồm: 01( một) máy tính xách tay nhãn hiệu Dell, màu đen.
- Thu của Hoàng Như L: 01 điện thoại điện thoại Samsung Galaxy A51, có số IMEI ( Khe 1): 352353112641821 và số IMEI ( khe 2): 352354112641829 và 01 (một) máy điện thoại nhãn hiệu Vsmart màu đen. - Bộ sưu tập của Đoàn Quang D3: 01 (một) điện thoại hiệu Philip màu đen - đỏ.
Tại Cáo trạng số 57/CT-VKS-P2 ngày 29/11/2021, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế tiếp tục:

- Bị can Lê Minh H, về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 3 Điều 174 BLHS 2015.
- Các bị cáo Đỗ Tú Tr, Hoàng Như L, Đoàn Quang D3 về tội “Rửa tiền” quy định tại khoản 1 Điều 324 BLHS năm 2015.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 28/2022/HS-ST ngày 22/4/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đã quyết định:

Quy kết Bị cáo Lê Minh H về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, các bị cáo Đỗ Tử Tr, Hoàng Như L, Đoàn Quang D3 tội: “Rửa tiền” Căn cứ khoản 3 và khoản 5 Điều 174; điểm b và s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 54 BLHS 2015; Tuyên phạt bị cáo Lê Minh H 3 năm 6 tháng tù. Thời hạn chấp hành án tính từ ngày bị bắt nhưng được trừ vào thời gian tạm giam trước khi xét xử từ ngày 18/10/2020 đến ngày 06/02/2021. Phạt bổ sung đối với bị cáo Lê Minh H là 20.000.000 đồng.
Căn cứ Khoản 1 và Khoản 5 Điều 324 BLHS 2015; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015, Xử phạt bị cáo Đỗ Tú Tr 01 năm 03 tháng tù. Thời hạn chấp hành án tính từ ngày bị bắt nhưng thời hạn tạm giam tính từ ngày 21 tháng 01 năm 2021 đến ngày 30 tháng 01 năm 2021. Phạt bổ sung đối với Đỗ Tú Tr 20.000.000 đồng.
Tuyên phạt bị cáo Hoàng Như L 01 năm 03 tháng tù. Thời hạn chấp hành án tính từ ngày bị bắt nhưng thời gian tạm giam trước khi xét xử tính từ ngày 18/10/2020 đến ngày 06/02/2021. Phạt bổ sung Hoàng Như L 20.000.000 đồng.
Tuyên phạt bị cáo Đoàn Quang D3 01 năm tù. Thời hạn chấp hành án tính từ ngày bị bắt nhưng thời gian tạm giam sẽ tính từ ngày 18 tháng 10 năm 2020 đến ngày 06 tháng 02 năm 2021. Đoàn Quang D3 phạt bổ sung 20.000.000 đồng. Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Gọi:

Ngày 04/5/2022, bị cáo Lê Minh H có đơn kháng cáo xin giảm án và đề nghị được hưởng án treo.
Ngày 25/4/2022, bị cáo Đoàn Quang D3 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và yêu cầu được hưởng án treo.
Ngày 25/4/2022, bị cáo Hoàng Như L kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và yêu cầu được hưởng án treo.
Ngày 05/5/2022, bị cáo Đỗ Tử Tr kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và yêu cầu được hưởng án treo. Đối với Tòa phúc thẩm:

Các bị cáo Lê Minh H, Đoàn Quang D3, Hoàng Như L xác nhận nội dung kháng cáo.
Bị cáo Đỗ Tú Tr. vắng mặt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao Đà Nẵng cho biết:

Về kháng cáo của bị cáo Lê Minh H: mặc dù sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo tiếp tục nộp thêm số tiền 90.000.000 đồng để khắc phục hậu quả và người bị hại xin giảm án cho bị cáo nhưng bản án của Tòa án cấp Cấp sơ thẩm đã tuyên là phù hợp nên không có lý do gì để xem xét giảm án.
Đối với kháng cáo của các bị cáo Đỗ Tú Tr, Hoàng Như L và Đoàn Quang D3: Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo Hoàng Như L và Đoàn Quang D3 nộp phạt bổ sung 20.000.000 đồng; Bị cáo Đoàn Quang D3 có vai trò thứ yếu, chỉ tham gia một lần vào việc chuyển tiền nên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt hai bị cáo Hoàng Như L và Đoàn Quang D3 mức án treo và giữ nguyên hình phạt đối với cả hai bị cáo. Tr.

NHẬN XÉT CỦA TÒA ÁN

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Lê Minh H, Đoàn Quang D3, Hoàng Như L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của các bị cáo tại tòa phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra và với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ. Từ đó đủ cơ sở kết luận: Ngày 21/7/2020 và 22/7/2020 tại cửa hàng Internet Zone Huế, 5A đường PC, phường P, thành phố H3, tỉnh Thừa Thiên Huế; Minh H có hành vi chiếm đoạt tài khoản Facebook “U Vuong” của ông Vương Thụy U. Sau khi chiếm đoạt được tài khoản, H đã mạo danh chủ tài khoản để liên hệ với ông U nhằm vay tiền và chiếm đoạt của bà Vương. Thủy T4 số tiền 390.000.000đ.
[2] Đối với Đỗ Tú Tr., Hoàng Như L và Đoàn Quang D3 sau khi thỏa thuận cùng nhau nhận và rửa tiền bất chính do Lê Minh H tham ô của người khác với số tiền 110.000.000 đồng để hưởng lợi bất chính. Trong đó Tr lãi 3.300.000 đồng; L lãi 6.700.000 đồng; D3 lãi 1.000.000đ.
[3] Hành vi trên của bị cáo Lê Minh H đã phạm vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 3 Điều 174 BLHS năm 2015; Các bị cáo Đỗ Tú Tr, Hoàng Như L và Đoàn Quang D3 phạm tội “Rửa tiền” theo quy định tại khoản 1 Điều 324 Bộ luật Hình sự năm 2015 như bản án xét xử đã tuyên là có căn cứ, đúng đắn. . [4] Xét kháng cáo xin giảm án, đình chỉ của bị cáo Lê Minh H: Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo phạm 02 tội trở lên và có các tình tiết giảm nhẹ: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình bị cáo hoàn trả số tiền khắc phục hậu quả 300.000.000 đồng; Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự nên áp dụng Điều 54 BLHS xử phạt bị cáo 3 năm 6 tháng tù. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo tiếp tục thu hồi số tiền còn lại là 90.000.000 đồng và được người bị hại xin giảm án. Đây là những tình tiết giảm nhẹ mới tại phiên tòa phúc thẩm nên có cơ sở chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ một phần mức án cho bị cáo Lê Minh H.
[5] Xét kháng cáo của các bị cáo Đỗ Tú Tr, Hoàng Như L và Đoàn Quang Đ3 đề nghị giảm án và cho hưởng án treo: Hội đồng xét xử đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ và phân biệt vai trò trách nhiệm của từng bị cáo, trong đó các bị cáo Đỗ Tú Tr, Hoàng Như L cùng phải chịu trách nhiệm; Bị cáo Đoàn Quang D3 phạm tội với vai trò đồng phạm giúp sức. Mặc dù sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo D3 và L đã nộp phạt bổ sung 20.000.000 đồng nhưng mức án của Tòa án cấp sơ thẩm đối với các bị cáo là phù hợp nên không có lý do gì để xem xét giảm án. ̉̉an treo. Vì những lý do trên;

PHÁN QUYẾT

Căn cứ điểm b khoản 1 điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự.
Chấp nhận kháng cáo của Bị đơn Lê Minh H;

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đỗ Tử Tr, Hoàng Như L và Đoàn Quang D3.
Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 28/2022/HS-ST ngày 22 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế.
1. Tuyên bố Bị cáo Lê Minh H phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, Bị cáo Đỗ Tú Tr, Hoàng Như L, Đoàn Quang D3 phạm tội: “Rửa tiền”. áp dụng khoản 3 và khoản 5 Điều 174; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 54 BLHS 2015;

Tuyên phạt bị cáo Lê Minh H 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành án kể từ ngày bị bắt nhưng được trừ vào thời gian tạm giam từ ngày 18/10/2020 đến ngày 06/02/2021. Phạt bổ sung đối với bị cáo Lê Minh H là 20.000.000 đồng.
 Căn cứ khoản 1 và khoản 5 Điều 324 BLHS 2015; Tiết s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015, xử phạt bị cáo Đỗ Tú Tr 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành án tính từ ngày bị bắt nhưng thời gian tạm giam trước khi xét xử sẽ tính từ ngày 21/01/2021 đến ngày 30/01/2021. Phạt bổ sung bị cáo Đỗ Tú Tr 20.000.000 đồng.
Tuyên phạt bị cáo Hoàng Như L 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành án tính từ ngày bị bắt nhưng thời hạn tạm giam trước khi xét xử tính từ ngày 18/10/2020 đến ngày 06/02/2021. Phạt bổ sung bị cáo Hoàng Như L 20.000.000 đồng.
Tuyên phạt bị cáo Đoàn Quang D3 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành án tính từ ngày bị bắt nhưng thời gian tạm giam trước khi xét xử sẽ được tính từ ngày 18 tháng 10 năm 2020 đến ngày 06 tháng 02 năm 2021. đồng.
2. Án phí hình sự phúc thẩm:

Bị cáo Lê Minh H không bị sao.
Các bị cáo Đỗ Tú Tr, Hoàng Như L, Đoàn Quang D3 mỗi người mang 200.000 đồng. 3. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày được giao.

Bản án tội rửa tiền

Bản án tội rửa tiền


TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG

Bản án số 09/2022/HS-PT NGÀY 01/12/2022 VỀ TỘI RỬA TIỀN

Ngày 12/01/2022, tại Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đã xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm số: 92/2021/TLPT-HS ngày 21/5/2021 đối với bị cáo Chang Chao vs. Do Bị đơn kháng cáo Bản án hình sự số 103/2021/HS-ST ngày 13 tháng 4 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Kháng cáo của bị đơn:

Chang Chao C (tên khác: A Q) sinh năm 1980 tại Đài Loan; Nơi cư trú: Tầng 3, Tầng 3, Ngõ 8, Ngõ 24, Phố J, Khu T, Thành phố C, Đài Loan; Trú quán: Chung cư Becamex Việt Sing, khu phố 4, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa (học vấn): Trung cấp; dân tộc: Hán; giới tính nam; Phật đạo; Quốc tịch: Đài Loan (Trung Quốc); con ông Chang Shu Y và bà Wu Pi K; tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị tạm giữ và phạt tù từ ngày 10/8/2019 đến nay có mặt.
Trịnh Đức D - Luật sư Công ty luật Sun Việt, thành viên Đoàn luật sư TP.HCM, là người bào chữa cho bị cáo Chang Chao C, có mặt.
Người dịch: Bà Phan Ái T, Trú quán: 86 Tổ 4, Khu dân cư N, Khu phố T, Phường T, Thành phố T, Tỉnh Bình Dương, hiện nay.
NỘI DUNG TÌNH HUỐNG

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến phiên tòa, có thể tóm tắt nội dung vụ án như sau:

Chang Chao C là người Đài Loan, sống tại tòa nhà Becamex, khu dân cư Vietsing, khu phố 4, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương; Lê Minh T là Giám đốc Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ S, địa chỉ: Ô 4- 6, Lô DC 57, KDC Việt Sing, Khu phố 4, Phường P, Thành phố T, Tỉnh Bình Dương (gọi tắt là Công ty S) ) công ty cho thuê xe tự lái. Trần Mạnh H là nhân viên Công ty S.
Khoảng năm 2018, Chang Chao C quen một người tên Kuo Tai M (không rõ lai lịch) tại Campuchia. M đề nghị Chun sang Việt Nam tìm mua tài khoản ngân hàng để nhận tiền của người chơi rồi rút tiền đưa cho M để nhận tiền lương hàng tháng là 3.000 đô la Mỹ (USD) và 08% trên tổng số tiền. Được rồi. Sau đó, từ tháng 3/2019, Chang Chao C nhiều lần sang Việt Nam tìm mua tài khoản ngân hàng nhưng không được.
Tháng 6/2019, Chun quen Lê Minh T do T thường cho người Đài Loan (Trung Quốc) thuê xe và biết giao tiếp bằng tiếng Trung. C và T thỏa thuận mua 01 tài khoản ngân hàng tại Việt Nam với giá 01 tài khoản từ 3.000.000 đồng đến 3.500.000 đồng. Minh T nhờ người quen mở tài khoản ngân hàng cho Tâm rồi bán cho Chang Chao C.
Sau khi mua tài khoản ngân hàng của T, C đã đăng thông tin về các tài khoản nhóm của M trên Telegram, M yêu cầu C rút tiền từ các tài khoản này, C nói không rút vì không phải là chủ tài khoản. Vì vậy, Kuo Tai M đề nghị Lê Minh T rút tiền từ tài khoản ngân hàng của mình giao cho Chang Chao C để hưởng 08% trên số tiền rút thì T đồng ý.
Để rút tiền khi có nhu cầu, T nhờ em trai là Lê Minh H, Lê Minh C và nhân viên của mình là Trần Mạnh H đứng tên mở tài khoản ngân hàng rồi đưa cho T quản lý vs. Đồng thời, T thuê chung cư Becamex, khu dân cư Vietsing cho C ở. Hàng ngày, C đến văn phòng của T tại công ty S để sử dụng máy tính để liên lạc, trao đổi qua mạng xã hội Telegram với nhóm của Kuo Tai M về việc rút tiền. Thông tin về tài khoản ngân hàng của người nhận, mật khẩu đăng nhập, số tiền rút, số tiền giao hàng và các nội dung liên quan khác được đăng trên sàn giao dịch trong nhóm mạng xã hội. Khi nhận được tin nhắn từ ngân hàng bằng tiếng Việt thông báo về thông tin tài khoản người nhận, mã OTP…, C không hiểu nên nhờ T đọc nội dung, sau đó C nhắn tin cho nhóm của Kuo Tai M nếu có. không T, C sẽ chụp ảnh gửi cho nhóm.
Khi có nguồn tiền, nhóm của M sẽ hỏi C xem tài khoản nào có thể nhận và rút tiền, C hỏi T thì T sẽ chọn tài khoản của H, hoặc Ch báo cho C, C báo cho nhóm của mình. M biết. Khi tiền được chuyển vào tài khoản ngân hàng do T chỉ định, nhóm của M báo cho C biết, C nhờ T đi rút tiền, T nhờ H hoặc Ch ra ngân hàng hoặc cây ATM rút tiền giao cho T. Sau khi trừ 08 % số tiền rút được, T giao tiền cho C. Kuo Tai M sẽ cử người đến gặp C để lấy tiền.
Khoảng 14h ngày 18/7/2019, chị Phan Ngọc H nhận được điện thoại của đối tượng (chưa xác định lai lịch) tự xưng là cán bộ ngành tư pháp (công an, viện kiểm sát, tòa án) TP. Đà Nẵng cho biết bà H là nghi phạm trong vụ án ma túy, lừa đảo và rửa tiền, đồng thời yêu cầu bà H giữ bí mật thông tin để không ảnh hưởng đến quá trình điều tra vụ án. Đồng thời, các đối tượng này gửi cho chị H hình ảnh quyết định thu giữ, niêm phong tài sản và lệnh bắt tạm giam đối với chị Phan Ngọc H và yêu cầu chị H rút toàn bộ số tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi mở tài khoản tại ngân hàng. Hàng quân nộp tiền để điều tra nguồn gốc số tiền. Thực hiện theo yêu cầu, ngày 19/7/2019, bà H đến Ngân hàng Quân đội (MBbank) - Phòng giao dịch U, tỉnh Bình Dương mở tài khoản số 142012898203, đăng ký số thuê bao để nhận mã xác thực giao dịch (mã OTP). là 0865259261 và nộp số tiền 450.000.000 đồng vào tài khoản. Sau đó, chị H cung cấp thông tin về tài khoản mới mở cho các chủ đề trên.
Đến khoảng 14h cùng ngày, chị H phát hiện số tiền 449,9 triệu đồng trong tài khoản của chị H đã bị chuyển vào tài khoản số 65310000402146 tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) Chi nhánh Thủ Dầu Một. Trần Mạnh H. Sau đó, chị H không liên lạc được với các đối tượng xưng là cán bộ Tư pháp nên biết mình bị lừa. Ngày 27/7/2019, chị H đã làm đơn trình báo đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T, tỉnh Bình Dương. Cũng bằng thủ đoạn nêu trên, các đối tượng tự xưng là cán bộ ngành tư pháp (chưa xác định danh tính) đã lừa đảo 13 người khác ở các tỉnh chuyển tiền vào tài khoản ngân hàng do Lê Minh T. làm Giám đốc Chang Chao C. Sau đó, Lê Minh T rút tiền đưa cho Chang Chao C để giao cho Kuo Tai M. Cụ thể như sau:

Ông Hồ Xuân M: Ngày 26/6/2019, ông M bị các đối tượng giả danh cán bộ tòa án lừa đảo nên đã chuyển số tiền 30.000.000 đồng vào tài khoản số 65110002431595 của Minh H tại Ngân hàng BIDV. đã rút tiền và đưa cho Lê Minh T. Ngày 27/7/2019, anh Mh tiếp tục chuyển số tiền 15.000.000 đồng vào tài khoản số 65310000402146 tại Ngân hàng BIDV của Trần Mạnh H, số tiền này được rút ngay tại trụ sở chính. Bà Tạ Thị Thu T: Ngày 1/7/2019, bà T bị các đối tượng giả danh cán bộ tư pháp lừa đảo nên đã chuyển số tiền 83.000.000 đồng vào tài khoản số 046100606406 tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank). của Lê Minh H thì H rút tiền đưa cho Lê Minh T.
Bà Nguyễn Thị Cẩm D: Ngày 2/7/2019, bà D bị các đối tượng giả danh cán bộ tòa án lừa đảo nên đã mở tài khoản số 1861911099 tại Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng (VPbank) và nộp số tiền 60.000.000 đồng vào tài khoản. . Sau đó, các đối tượng chuyển số tiền 60.000.000 đồng từ tài khoản của chị D. vào tài khoản số 19033670809011 tại Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam (Techcombank) của Trần Mạnh H, H rút tiền đưa cho Lê Minh T.
Bà Hoàng Thị H: Ngày 4/7/2019, bà H bị các đối tượng giả danh cán bộ tòa án lừa đảo nên đã chuyển số tiền 452.420.000 vào tài khoản số 050108184611 của Lê cho Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín (Sacombank). rồi đưa cho T.
Ông Phạm Phú Nguyên H: Ngày 05/7/2019, ông H bị người giả danh Thừa phát lại lừa đảo nên đã chuyển số tiền 32.000.000 đồng vào tài khoản số 050108184611 tại Ngân hàng Sacombank Lê Minh H, H. rút tiền đưa cho nó đến T Ngày 06/7/2019, anh H làm thủ tục chuyển số tiền 54.000.000 đồng vào tài khoản của Hảo số 050108184611 tại Sacombank. Sau đó chuyển 50.000.000 đồng vào tài khoản 31410001496742 tại Ngân hàng BIDV của Lê Minh Ch và rút tại cây ATM; Còn lại 4.000.000 đồng chuyển vào tài khoản 046100606406 của Lê Minh H tại Vietcombank.
Bà Phan Thị Thu H: Ngày 12/7/2019, bà H bị các đối tượng giả danh cán bộ tòa án lừa đảo nên đã chuyển số tiền 54.900.000 đồng vào tài khoản số 19033670809011 tại Techcombank của Trần Mạnh H để H rút tiền. rồi đưa cho T.
Bà Phạm Thị T: Ngày 16/7/2019, bà T bị các đối tượng giả danh cán bộ tư pháp lừa đảo nên đã chuyển số tiền 393.000.000 đồng vào tài khoản số 1903367809011 cho Ngân hàng Techcombank của Trần Mạnh H. Ngày 17 Ngày 7/7 năm 2019, chị T nhờ người quen là anh Nguyễn Đại P chuyển số tiền 20.000.000 đồng; Bà Lê Thị Thúy H chuyển số tiền 200.000.000 đồng và bà Vũ Thị Thanh L chuyển số tiền 125.000.000 đồng vào tài khoản số 19033670809011 tại Techcombank của Trần Mạnh H. Tổng số tiền 738.000.000 đồng bà T chuyển vào tài khoản ngân hàng của H, H rút ra đưa cho T.
Bà Lê Thị Lan H: Ngày 16/7/2019, bà H bị các đối tượng giả danh thừa phát lại lừa đảo nên đã mở tài khoản số 0040119018007 tại Ngân hàng Quân đội (MBbank) và nộp vào tài khoản số tiền 100.000.000 đồng. Cùng ngày, số tiền 100.000.000 đồng được chuyển vào tài khoản số 65110002431595 của Lê Minh H tại Ngân hàng BIDV, sau đó 50.000.000 đồng chuyển vào tài khoản số 0461000624665 của T tại Ngân hàng Vietcombank. Ngày 17/7/2019, chị H tiếp tục gửi số tiền 31.000.000 đồng vào tài khoản MBbank nhưng bị kẻ gian chuyển vào tài khoản số 613704060353460 của chị H tại Ngân hàng Quốc tế Việt Nam (VIB). H rút tiền đưa cho T. Ông Phạm Việt S: Ngày 31/7/2019, ông S bị các đối tượng giả danh Thừa phát lại lừa đảo nên đã chuyển số tiền 950.000.000 đồng vào tài khoản số 19034523707011 Ngân hàng TMCP Kỹ thương Lê Minh H, H để rút tiền trả lại cho T
Bà Lê Thị Kim T: Ngày 2/8/2019, bà T bị các đối tượng giả danh cán bộ tòa án lừa đảo nên đã chuyển số tiền 1.200.000.000 đồng vào tài khoản số 65310000402146 đến Ngân hàng BIDV của Trần Mạnh H. T. yêu cầu bà H rút số tiền trên. là 250.000.000 VNĐ. Số tiền 200.000.000 đồng trong tài khoản ngân hàng BIDV của H được H chuyển vào số tài khoản 19033670809011 của H tại Techcombank, sau đó chuyển sang số tài khoản 0461000624665 của T tại Vietcombank và rút ra nhiều lần tại cây ATM. Số tiền 250.000.000 đồng trong tài khoản ngân hàng BIDV của H đã được Ch chuyển vào tài khoản số 31410001496742 tại Ngân hàng BIDV, Ch đã rút và chuyển trả cho T. Còn lại 500.000.000 đồng trong tài khoản ngân hàng BIDV của H, cơ quan điều tra đã nhanh chóng phong tỏa khiến H không rút được.
T vay của người quen là anh Nguyễn Đình T số tiền 700.000.000 đồng để bù vào số tiền chưa rút để giao cho Chang Chao C. T thỏa thuận với anh T trả góp mỗi ngày 90.000.000 đồng và T đã chuyển khoản cho Kuo. nhóm Tài M đến tài khoản ngân hàng của ông T để ông T rút và chuyển cho T, T để ông T hưởng lợi 02% số tiền rút; Ông T không thừa nhận đã nhận 02% như T trình bày.
Ông Nguyễn Đức D: Ngày 2/8/2019, ông Đốc bị người giả danh cán bộ tòa án lừa đảo nên đã chuyển số tiền 200.000.000 đồng vào tài khoản số 1529684001 tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB) của Minh. H, sau đó chuyển 100.000.000 đồng vào tài khoản số 3514205162274 tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Agribank) của chị Bùi Thị T, sinh năm 1992, trú: Xã L, huyện L, tỉnh Thanh Hóa để chị T rút tiền . Còn lại 100.000.000 đồng trong tài khoản H rút tiền và giao cho T. Ngày 03/8/2019, anh D tiếp tục chuyển số tiền 29.000.000 đồng vào tài khoản số 1529684001 tại Ngân hàng SCB Đề Hào, số tiền này được chuyển vào tài khoản số 19021851046028 tại Techcombank của anh Nguyễn Đình T và anh M. T đã rút ra và đưa cho T.
Cơ quan điều tra đã tiến hành kiểm tra đối với bà Bùi Thị T, nhưng bà T không có mặt tại nhà nên không thể đi làm.
Bà Lê Ngô Quế P: Ngày 07/8/2019, bà P bị các đối tượng giả danh thừa phát lại lừa đảo nên đã mở tài khoản số 1510125114007 tại MBbank và nộp vào tài khoản số tiền là 65.000.000 đồng. Sau đó số tiền này được chuyển vào tài khoản số 19033670809011 tại Techcombank của Trần Mạnh H rồi chuyển vào tài khoản số 19021851046028 tại Techcombank của ông Nguyễn Đình T. Ông T giữ số tiền này để trừ vào số tiền đến hạn. Bà Nguyễn Thị Phương T: Ngày 07/8/2019, bà T bị các đối tượng giả danh cán bộ tòa án lừa đảo nên đã chuyển số tiền 2.630.000.000 đồng vào tài khoản số 1529684001 đến ngân hàng SCB của bà H. đến tài khoản số 190 34523707 011 với Techcombank của H và chuyển số tiền 2.600.000.000 đồng vào tài khoản số 19033670809011 với Techcombank của Trần Mạnh H. Sau đó, toàn bộ số tiền 6.680.000.000 đồng của H đã được chuyển cho bà T (vào tài khoản của H). đến tài khoản số 19021851046028 tại Techcombank của Nguyễn Đình T. Anh T rút số tiền 2.414,7 triệu đồng đưa cho T, còn T rút 3 số tiền 800.000.000 đồng nhưng chưa giao. đối với T, ngày 12/8/2019, cơ quan điều tra đã khám xét, tạm giữ nơi ở.
Như vậy, từ ngày 26/6/2019 đến ngày 8/8/2019 tài khoản ngân hàng của Lê Minh T, Trần Mạnh H, Lê Minh H, Lê Minh Ch do Chang Chao C quản lý đã nhận được tổng số tiền là 11.431.220.000 đồng do 14 người bị lừa đảo. giả làm thừa phát lại. Trong đó, tài khoản của Trần Mạnh H tại Techcombank và BIDV nhận số tiền 5.117,8 triệu đồng và rút số tiền 1.568.350.000 đồng, số tiền còn lại chuyển sang tài khoản khác. Số tiền 500.000.000 đồng chị Lê Thị Kim T chuyển vào tài khoản ngân hàng BIDV của chị H đã bị cơ quan điều tra phong tỏa nên không rút được. Mỗi lần đi rút tiền, T đưa cho H số tiền từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng, tổng số tiền H thu lợi bất chính khoảng 3.000.000 đồng.
Minh T rút tiền và nhờ H, Ch, T rút tổng số tiền là 10.373.420.000 đồng, T đưa cho C số tiền là 6.573.420.000 đồng, T khai nhận đã thu lợi bất chính khoảng 300.000.000 đồng. Đối với số tiền 3.800.000.000 đồng của bà Nguyễn Thị Phương T mà ông T rút không giao cho T thì bị thu giữ.
Sau khi nhận tiền của Lê Minh T, Chang Chao C đã báo cho Kuo Tai M cử người ở gần nơi C cư trú để lấy tiền. Tổng số tiền C đã đưa cho những người của Kuo Tai M là khoảng 5.000.000.000 đồng. C được Kuo Tai M trả bằng USD (khoảng 50.000.000 VND) và giữ lại 08% trên tổng số tiền rút để làm quỹ chi tiêu hàng ngày là 350.000.000 VND. Tổng số tiền C thu được bất hợp pháp từ hoạt động rửa tiền tại Việt Nam là 400.000.000 đồng.
Bằng Bản án sơ thẩm hình sự số 103/2021/HS-ST ngày 13 tháng 4 năm 2021, Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương quyết định:

Theo quy định tại điểm a, b khoản 3 điều 324; Tiết 46; Tiết 47; tiết s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 điều 52; Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Chang Chao C 13 (mười ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 10 tháng 8 năm 2019.
Ngoài ra, bản án còn tuyên phạt bị cáo Lê Minh T 12 (mười hai) năm tù, bị cáo Trần Mạnh H 08 (tám) năm tù. Ngày 28/4/2021, bị cáo Chang Chao C có đơn kháng cáo xin giảm án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương nhận xét: Kháng cáo của bị cáo đã được nộp đúng thời hạn quy định của pháp luật. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, có đủ căn cứ xác định hành vi phạm tội của các bị cáo bị xét xử tại phiên tòa là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Sau phiên tòa sơ thẩm, bị cáo kháng cáo xin giảm án. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không đưa ra được tình tiết giảm nhẹ mới, mức hình phạt mà tòa sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là phù hợp với tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội của bị cáo. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin giảm án của bị cáo và giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
Quan điểm của VKS đối với bị cáo: bị cáo do bất đồng ngôn ngữ, không hiểu pháp luật Việt Nam, bị người khác lôi kéo vào con đường tội phạm, bị cáo có vai trò giúp việc cho tòa án, tự nguyện dùng của mình. tiền để trả lại số tiền thu được của vụ án. Vì vậy, đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 51 BLHS để giảm nhẹ hình phạt thấp hơn cho bị cáo để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình và nói lời sau cùng, bị cáo xin hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức án cho bị cáo.
NHẬN XÉT CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào nội dung vụ án và các tang vật đã được đưa ra xét xử tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

Kháng cáo của bị đơn trong thời hạn luật định là có cơ sở nên vụ án được xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Các quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương, hành vi của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử tiến hành điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm theo đúng quy định của tội phạm mã thủ tục Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến, khiếu nại đối với hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng. Như vậy, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp, đúng quy định.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội mà cấp sơ thẩm đã xác định. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo khác trong quá trình điều tra, phù hợp với chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở kết luận: Khoảng tháng 6/2019, các đối tượng giả danh cán bộ ngành tư pháp gọi điện lừa đảo nạn nhân cả tin. rằng họ có liên quan đến tội phạm hình sự và yêu cầu họ chuyển tiền vào tài khoản do họ mở. Mặc dù biết đó là tiền phạm tội nhưng Chang Chao C, Lê Minh T đã nhờ Trần Mạnh H, Lê Minh H, Lê Minh Ch và T trực tiếp mở tài khoản để nạn nhân chuyển tiền cho nạn nhân. người giả danh thừa phát lại. Từ ngày 26/6/2019 đến ngày 8/8/2019, tài khoản ngân hàng của Lê Minh T, Trần Mạnh H, Lê Minh H, Lê Minh Ch do Chang Chao C, Lê Minh T quản lý đã nhận tổng số tiền là 11.485.320.000 đồng do 14 người có bị lừa bởi những người giả danh thừa phát lại. Lê Minh T trực tiếp rút tiền, nhờ Trần Mạnh H, Lê Minh H, Lê Minh Ch rút tiền cho Tâm chuyển vào tài khoản của Nguyễn Đình T để Tuấn rút tiền đưa cho T để T đưa cho C. số tiền 4.205.220.000 đồng và T đã thu lợi bất chính số tiền là 336.417.600 đồng. Chang Chao C đã nhận của T 4.328.802.400 đồng và đưa cho Kuo Tai M 3.957.984.800 đồng. Số tiền thu lợi bất chính 8% từ ngày 1/7/2020 đến thời điểm bị bắt là 370.817.600 VND và 2.000 USD (tương đương 46.000.000 VND), tổng cộng là 416.817.600 VND. Hành vi của bị cáo Chang Chao C đã đủ yếu tố cấu thành tội “Rửa tiền” quy định tại điểm a và điểm b khoản 3 điều 324 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Do đó, phiên tòa sơ thẩm - việc bị cáo cấp sơ thẩm về tội danh trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, phá hoại trật tự công cộng, trật tự quản lý nhà nước về tài sản do phạm tội mà có, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo biết rõ số tiền người khác chuyển là do phạm tội mà có nhưng vẫn yêu cầu bị cáo T, H nhờ người khác mở tài khoản để mình chuyển tiền nhằm che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của số tiền do ai đó phạm tội mà có. khác và để thu lợi từ số tiền bất chính này thì hành vi này là trái pháp luật và sẽ bị trừng trị, nhưng do lòng tham, vụ lợi đã thực hiện một cách cố ý, thể hiện ý thức coi thường pháp luật, coi thường hậu quả.
Xét kháng cáo của bị cáo: bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không đưa ra được tình tiết giảm nhẹ mới, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Vì vậy, không có lý do gì chấp nhận kháng cáo xin giảm án của bị cáo.
Ý kiến ​​của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương về việc giải quyết vụ án là phù hợp nên hội đồng xét xử đã chấp nhận.
Quan điểm của người bào chữa trình bày nguyên nhân, điều kiện dẫn đến việc phạm tội của bị cáo là phù hợp. Tuy nhiên, việc đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo đã được cấp sơ thẩm xem xét, việc xin áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo là không có cơ sở để chấp nhận.
Về án phí dân sự phúc thẩm: do kháng cáo của bị đơn không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định tại Điều 135, khoản 2, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí thi hành án Vì những lý do trên,

PHÁN QUYẾT

Căn cứ khoản 1 Điều 344, Điều 345(a), khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Chang Chao C, tuyên hủy bản án hình sự sơ thẩm số: 103/2021/HS-ST ngày 13 tháng 4 năm 2021, Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Theo quy định tại điểm a, b khoản 3 điều 324; tiết s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 điều 52; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017, Tuyên phạt bị cáo Chang Chao C 13 (mười ba) năm tù về tội “Rửa tiền”, thời hạn tù tính từ ngày 10 tháng 8 năm 2019.
Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày được giao.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo