Tổng hợp bản án về tội mua bán ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẢO SƠN, TỈNH AN GIANG

Bản án số 06/2022/HS-ST NGÀY 25/02/2022 VỊ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHIẾU CHẤT THUYẾT

Ngày 25/02/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang đã xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự số 65/2021/TLST-HS ngày 26/11/2021 theo Quyết định Quyết định số 06/2022/QĐXXST-HS ngày 10/02/2022 đối với bị can:

BC, năm sinh: 1993, nơi sinh: huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang; nơi cư trú: ấp H, xã M, huyện HD, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: làm thuê; Cấp trường: 06/12; Dân tộc Kinh; giới tính nam; không tôn giáo; Tiếng Việt; con ông H.V.T, sinh năm 1967 và bà L.T.U, sinh năm 1968; anh em ruột có 3 người thì bị cáo là người thứ nhất; Bị cáo còn độc thân.
Tiền án tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giam kể từ ngày 21 tháng 5 năm 2021 đến nay có mặt tại phiên tòa.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Anh T.Q.D, sinh năm 1985; nơi cư trú: ấp D, xã TD, huyện TH, tỉnh Kiên Giang. Vắng mặt.
Nhân chứng:

- Anh T.T.D, sinh năm 2000; nơi cư trú: ấp S, xã A, huyện TS, tỉnh An Giang. Vắng mặt.
- Anh T, sinh năm 1979; nơi cư trú: khóm B, thành phố N, huyện TS, tỉnh An Giang. Vắng mặt.
- Anh V.T.T, sinh 1994; nơi cư trú: khóm B, thị trấn NS, huyện TS, tỉnh An Giang. Vắng mặt. NỘI DUNG TÌNH HUỐNG

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến phiên tòa, có thể tóm tắt nội dung vụ án như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 21/5/2021, nhận được tin tố giác của người dân, lực lượng tuần tra Công an thị trấn Núi Sập, huyện Thoại Sơn kiểm tra hành chính xe mô tô biển số 68S1- 396.70 do BC điều khiển trên đoạn đường tỉnh 943 thuộc địa phận TP. khu vực xóm Bắc Sơn, xã Núi Sập. Tiến hành kiểm tra, lực lượng Công an phát hiện bên trong chiếc khẩu trang vải kẻ caro màu xanh mà Nghĩa đang đeo là 1 túi nylon trong suốt, một đầu có viền màu đỏ có khe khóa ở bên trong chứa tinh thể màu trắng (ký hiệu nhãn bao bì M1) và 01 bịt kín trong suốt. bịch nylon, bên trong chứa tinh thể màu trắng (có niêm phong bao bì ký hiệu M2). Nghĩa cho biết tinh thể trong các túi nylon bị thu giữ là methamphetamine được mua của một người tên Tư Gia (không rõ họ, địa chỉ chính xác) ở phường Mỹ Hòa, TX.Long Xuyên, Nghĩa, Khổ qua mang về bán.
Vật chứng thu giữ: 01 túi nylon trong suốt, có rãnh, viền đỏ bên trong chứa tinh thể màu trắng và 01 túi ni lông trong suốt hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme, loại C11, màu xám; 01 khẩu trang vải; 01 xe máy Dream, biển số 68S1-396.70.
Tại Kết luận giám định số 119/KLGT-PC09(MT) ngày 28/5/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh An Giang kết luận: Mẫu M1, M2 gửi giám định là 01 chất ma túy, loại Methamphetamine, có tổng khối lượng: 2,4206 gam. Theo biên bản xét nghiệm ngày 21/5/2021 của Trung tâm Y tế huyện Thoại Sơn ghi: BC dương tính với chất methamphetamine.
Tại Cáo trạng số 69/CT-VKSTS ngày 25/11/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang truy tố bị cáo B.C về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 BLHS 2015.
Tại phiên tòa:

- Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội. Tuy nhiên, bị cáo chỉ khai nhận một lần bán ma túy cho Đức Xăm vào ngày 20/5/2021 và một lần vào ngày 21/5/2021 bị cáo lấy ma túy nhưng chưa bán cho Đức Xăm thì bị cơ quan công an bắt quả tang. . Bị cáo không phản đối việc sa thải công tố viên. - Kiểm sát viên giới thiệu cáo trạng: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo ở giai đoạn điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ. Vì vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thoại Sơn về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 BLHS năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật về nhân thân, tội phạm phù hợp với quy định của pháp luật. .
Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng đến trật tự, an ninh xã hội; vi phạm quy định quản lý nhà nước về thuốc. Bị cáo là người lành mạnh, lương tâm trong sáng. Bị cáo biết việc mua ma túy là vi phạm pháp luật nhưng do việc mua bán ma túy thu lợi nên bị cáo đã mua ma túy mang về bán lẻ. Do đó, phải có mức án tương xứng hành vi phạm tội của bị cáo, để trừng trị bị cáo, giáo dục, răn đe bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội. Tuy nhiên, khi lượng hình đề nghị HĐXX có xem xét, các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, xuất thân từ thành phần nhân dân lao động, học vấn thấp nên nhận thức pháp luật có phần hạn chế; Do đó, đề nghị xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.
Căn cứ vào tính chất của vụ án, hành vi phạm tội của bị cáo, xem xét các tình tiết giảm nhẹ hình phạt, nhân thân bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ Luật Hình sự 2015: Xử phạt bị cáo BC mức án từ 07 năm đến 08 năm tù, về tội “mua bán trái phép chất ma túy”; đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nghĩa.
- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: phong bì thư màu trắng, niêm phong dán kín, bên ngoài có ghi dòng chữ “Niêm phong vụ : 119/KLGT-PC09 (MT) ngày 28 tháng 5 năm 2021”, có đóng dấu tròn màu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang và các chữ ký ghi họ tên: Nguyễn Đăng Khoa, Trần Hữu Sĩ; 01 (một) khẩu trang vải (loại hai lớp) mặt trước màu xanh có sọc ca rô, mặt sau màu nâu.
Tịch thu sung quỹ Nhà nước: phong bì thư màu trắng, niêm phong, dán kín, bên ngoài có ghi dòng chữ “Niêm phong vụ : 189/KLGT-PC09 (KTSĐT) ngày 05 tháng 8 năm 2021”, có đóng dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự tỉnh An Giang và các chữ ký ghi họ tên: Nguyễn Phước Thịnh, Phạm Văn Hùm, bên trong là điện thoại di động nhãn hiệu Realme; xe mô tô nhãn hiệu Dream, biển số 68S1-396.70, SK: 000417, SM: 3000417. - Về trách nhiệm dân sự: Không.
Lời sau cùng của Bị cáo: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét Bị cáo.
NHẬN XÉT CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào nội dung vụ án và các tang vật đã được đưa ra xét xử tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

Về kiện tụng:

[1] Về tính hợp pháp của lời nhận tội và quyết định: Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Thoại Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thoại Sơn, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định trong bộ luật hình sự. Mã thủ tục Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, Bị đơn không có ý kiến, khiếu nại gì đối với các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp. [2] Trong trường hợp này, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa mặc dù Tòa án đã tống đạt giấy triệu tập hợp lệ. Xét thấy sự vắng mặt của họ không cản trở việc xét xử vụ án. Căn cứ Điều 292, Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Hội đồng xét xử luôn tiến hành xét xử vắng mặt.
Về nội dung:

[3] Chứng cứ để xác định hành vi phạm tội của bị can:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo ở giai đoạn điều tra cũng như các tài liệu, chứng cứ khác, gồm: Biên bản bắt người phạm tội ngày 21/5/2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thoại Sơn. ga tàu; biên bản niêm phong đồ vật ngày 21/5/2021; T.T.D khai mua ma túy của bị cáo 2 lần, mỗi lần 700.000 đồng nhưng lần thứ 2 chưa kịp giao ma túy thì bị bắt; Lời khai của ông Trần Thiện, ông Võ Thanh Tùng chứng kiến ​​lực lượng Công an bắt quả tang; biên bản kiểm tra điện thoại; Kết luận giám định ngày 21/5/2021 xác định mẫu gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có trọng lượng 2,4206g, phù hợp với vật chứng thu giữ của vụ án và tài liệu, vật chứng có liên quan. .
Căn cứ vào các căn cứ trên, xác định bị cáo đã nhiều lần bán ma túy cho các con nghiện loại Methamphetamine, 2 lần bán lại cho T.T.D và các đối tượng khác như Đức Bede (chưa xác định lai lịch). Bị cáo là người hoàn toàn chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi mua bán ma túy là vi phạm quyền độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy mà vẫn cố ý thực hiện.
Do đó, hành vi của bị cáo Nghĩa đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung tăng nặng là “phạm tội 02 lần trở lên” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Bộ Tài chính Luật hình sự 2015.
Vì vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thoại Sơn truy tố các bị cáo tại tòa hôm nay và cáo trạng của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thoại Sơn đối với các bị cáo tại phiên tòa là có cơ sở. đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.
Đối với các lần bị cáo bán ma túy cho Đức (Đức Bede), mỗi lần từ 1.000.000 đồng đến 4.000.000 đồng, do không xác định được họ, tên, địa chỉ của Đức (Đức Bé Đề). xem xét trách nhiệm hình sự của các bị cáo về hành vi mua bán ma túy này trong cùng một vụ án.
[4] Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân: Ma túy là chất gây nghiện, làm suy giảm sức khỏe, suy thoái nòi giống. Tệ nạn ma túy còn được coi là nguyên nhân phát sinh tệ nạn xã hội và tội phạm, làm lây lan đại dịch HIV/AIDS, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh trật tự xã hội.
Bị cáo đang trong độ tuổi lao động, có đủ điều kiện lao động tạo thu nhập nuôi sống bản thân và gia đình nhưng do lười lao động nên đã bán ma túy. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thúc đẩy tệ nạn ma túy gia tăng, ảnh hưởng lớn đến công cuộc đấu tranh phòng chống tệ nạn ma túy mà nhà nước và xã hội đang hết sức nỗ lực.
Ngoài ra, bị cáo có tính nóng nảy do nghiện ma túy. Vì vậy, cần phải có mức án tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra để đảm bảo mục tiêu răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. [5] Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã tỏ ra thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 bộ luật hình sự. Vì vậy, cần xem xét giảm nhẹ mức án cho bị cáo khi định mức án.
[6] Về hình phạt bổ sung: theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy: Bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định, có hành vi mua bán trái phép chất ma túy để tiếp tục mua ma túy về sử dụng nên Hội đồng xét xử áp dụng không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[7] Các biện pháp tư pháp và xử lý tài liệu:

- Số lượng thuốc thu giữ thuộc trường hợp phạm tội trắng trợn, cấm lưu hành; 01 khẩu trang vải có giá trị chứng minh tội phạm, phạm pháp; 01 túi nylon trong suốt, có khóa kéo, viền đỏ và 01 túi nylon trong suốt là vật dụng dùng để mổ xẻ, tiêu thụ ma túy và không còn giá trị sử dụng. Vì vậy, tịch thu tiêu hủy lượng ma túy, các vật dụng này theo điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme, loại C11, màu xám, bị cáo khai đã sử dụng điện thoại này liên lạc mua bán ma túy nên là phương tiện phạm tội. Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Dream, biển số 68S1-396.70: Ông Trương Quốc Dũng đứng tên trong giấy đăng ký mô tô, xe máy nhưng đã bán xe mô tô này cho người lái xe, không làm giấy tờ mua bán và ông không tranh chấp xe mô tô này. Bị cáo khai đã sử dụng chiếc xe này để đi mua ma túy và đi bán ma túy nên đây là phương tiện phạm tội. Vì vậy, tịch thu nộp ngân sách nhà nước điện thoại di động này cùng sim bên trong và 01 xe mô tô nhãn hiệu Dream, biển số 68S1-396.70 theo điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và các điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Các vật chứng trên được quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/12/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thoại Sơn với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.
[8] Những vấn đề khác:

Những lần bị cáo bán ma túy cho Đức (Đức Bê Đê), nhưng không có căn cứ xác định nhân thân của người này nên chưa đủ căn cứ xử lý Nghĩa về các lần bán ma túy này và người tên Tư Già do chưa xác định được đặc điểm, họ, tên, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau. T.T.D có hành vi “sử dụng trái phép chất ma túy” là vi phạm pháp luật, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Thoại Sơn đã có công văn đề nghị các cơ quan nhà nước có liên quan xử lý vi phạm hành chính theo quy định của Bộ luật pháp luật.
[9] Về án phí và quyền kháng cáo:

Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ trong vụ án có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Vì những lý do trên,

PHÁN QUYẾT

1. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251; Điều 38, điểm s, khoản 1, điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Kết tội bị cáo BC tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Hình phạt: Bị cáo BC 07 (bảy) năm tù.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính kể từ ngày 21 tháng 5 năm 2021 (hai mươi mốt tháng năm năm thứ hai chứ không phải hai mươi mốt) 2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
* Tịch thu, tiêu hủy:

- 01 (một) phong bì màu trắng, có dán tem niêm phong và ghi rõ “Đã niêm phong Công vụ: 119/KLGT-PC09(MT) ngày 28 tháng 5 năm 2021”, có dấu tròn đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang và chữ ký ghi rõ họ tên: Nguyễn Đăng K, Trần Hữu S.
- 01 (một) khẩu trang vải (loại 2 lớp) mặt trước ca rô màu xanh, mặt sau màu nâu. * Tịch thu sung quỹ nhà nước:

- 01 (một) phong bì màu trắng, có dán tem, niêm phong, ghi “Đã đóng dấu công vụ: 189/KLGT-PC09(KTSĐT) ngày 05/8/2021”, có đóng dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự tỉnh An Giang và chữ ký của các tên: Nguyễn Phước Thịnh, Phạm Văn Hùm, bên trong là 1 điện thoại Realme.
- 01 (một) xe máy Dream, biển số 68S1-396.70, SK: 000417, SM: 3000417.
(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/12/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thoại Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.)

3. Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng Tòa án Lệ phí và chi phí pháp lý:

Buộc bị cáo BC chịu 200.000 (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./

Bản án mua bán ma túy

Bản án mua bán ma túy


TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHỔ YÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 20/2022/HS-ST NGÀY 22/02/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 02 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã P Y, tỉnh T N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 15/2022/TLST-HS ngày 25 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2022/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo:

Vũ Văn T2 (tên gọi khác: Không), sinh năm 197x, tại tỉnh TN; Nơi ĐKHKTT: xóm N, xã T C, thị xã P Y, tỉnh T N; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 02/12; giới tính: Nam; dân tộc: Sán Dìu; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Mạnh T (đã chết) và bà Trương Thị M; có vợ là Hoàng Thị P và 02 con (con lớn sinh năm 1998, con nhỏ sinh năm 2001); tiền án, tiền sự: không.
Nhân thân: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 37/2011/HSST ngày 19/7/2011 của Tòa án nhân dân huyện (nay là thị xã) Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên, xử phạt Vũ Văn T2 09 năm tù về tội Cố ý gây thương tích. Bị can bị bắt tạm giam từ ngày 25 tháng 9 năm 2021 đến nay, hiện đang bị tạm giữ tại Ngân hàng giám sát thành phố P Y, tỉnh TN.
- Nhân chứng:

1. Anh Bùi Đức H, sinh năm: 198x; Địa chỉ: tổ dân phố 2B, khu PC C, TP SC, tỉnh TN. Vắng mặt. 2. Anh Dương Đức P, sinh năm: 199x; Địa chỉ: ấp T A 2, xã P T, thị xã P Y, tỉnh T N. Vắng mặt.
3. Anh Hoàng Bình T, sinh năm: 1992; Địa chỉ: ấp N, xã T C, thị xã P Y, tỉnh T N. Vắng mặt.
NỘI DUNG TÌNH HUỐNG

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến phiên tòa, có thể tóm tắt nội dung vụ án như sau:

Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 25/9/2021, tổ công tác Công an thành phố Phổ Yên phối hợp với Công an thị xã T C phát hiện chỗ ở của Vũ Văn T tại xóm N, thị trấn T C, thị xã Phổ Yên. xuất hiện một số đối tượng tụ tập có biểu hiện mua bán trái phép chất ma túy. Tổ công tác triển khai lực lượng đến địa điểm trên thì phát hiện tại bàn nhậu trước cửa bệnh viện của Vũ Văn T có 04 đối tượng đang ngồi. Khi thấy lực lượng Công an, T đã bỏ trốn. Tiến hành kiểm tra, 03 người đàn ông lần lượt khai tên là Bùi Đức H (SN 198x; ngụ tổ dân phố 2B, phường PC, TP. S C, tỉnh TN), Dương Đức P (SN 199x; ngụ ấp T A 2, TP. xã P T, thị xã P Y) và Hoàng Bình T (SN 199x; ngụ thôn N, xã T C, thị xã P Y). Trong quá trình kiểm tra, H đã tự giác rút từ túi quần trước bên phải của mình mang theo 01 bọc giấy bạc, bên trong có chứa chất rắn màu trắng đục và giao nộp cho lực lượng làm nhiệm vụ. P còn tự giác giao nộp cho lực lượng làm nhiệm vụ 01 gói giấy nhôm, bên trong chứa chất rắn màu trắng. H và P đều khai nhận chất rắn màu trắng đục trong 02 gói giấy bạc trên là Heroin loại Hêrôin, H và P vừa mua của T với giá 100.000 đồng/1 gói và đang định bỏ đi thì bị lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện và bắt giữ. bắt giữ. Đến 19h cùng ngày, Vũ Văn T2 đến cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phổ Yên khai nhận hành vi bán trái phép chất ma túy cho Bùi Đức H và Dương Đức P với số tiền 200.000 đồng.
Cùng ngày, cơ quan điều tra phối hợp với Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên, cân khối lượng chất rắn màu trắng đục thu giữ của Bùi Đức H là 0,040 gam P được niêm phong trong phong bì ký hiệu N., của Dương Đức. P nhận 0,055 gam P được niêm phong trong P có ký hiệu O gửi đi giám định. Tại Bản kết luận giám định số 1450 ngày 4/10/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Chất rắn màu trắng đục đựng trong chiếc hộp có ký hiệu N gửi giám định là chất ma túy, dạng giống hêrôin, có khối lượng là 0,040 gam; Chất rắn màu trắng đục trong P ta ký O được gửi đi giám định là chất gây choáng, loại Heroin, có khối lượng 0,055 gam.
Quá trình điều tra, H và P đều khai nhận: Vào khoảng 23h ngày 25/9/2021, H và P đến nhà T để mua ma túy về sử dụng. Khi đến nơi, thấy T đang ngồi nhậu ở sân với Hoàng Bình T, P đưa cho H 100.000 đồng, H có 100.000 đồng thì H đưa cho T 200.000 đồng và nói “Để lại cho anh 200.000 đồng” (nghĩa là bảo đưa cho anh). 200.000 đồng tiền ma túy), T đồng ý nhận tiền rồi vào nhà lấy ma túy và đưa cho Phong 2 gói ma túy. Sau đó P gửi lại gói tin H 01, H đề nghị T cho H và P sử dụng nH của T nhưng T không đồng ý. Khi H và P chuẩn bị rời đi thì bị Công an TP Phổ Yên ập vào bắt quả tang. Ngoài ra, Dương Đức P và Bùi Đức H cũng khai nhận trước đó đã mua ma túy của Vũ Văn T2. Cụ thể, vào khoảng 11h30 ngày 23/9/2021, H và P cùng nhau góp vốn mỗi người 100.000 đồng đến Bệnh viện T2 Vũ Văn hỏi mua thuốc. T đã bán cho H và P 02 gói hêrôin với giá 200.000 đồng. Sau khi mua ma túy, H và P ra về sử dụng.
Trong quá trình điều tra, Vũ Văn T2 khai nhận: Vào khoảng 11h ngày 25/9/2021, T đang ở nhà thì anh rể là Hoàng Bình T đến nhà thăm. T và Thuận đang ngồi uống nước kê ở sân ngoài cửa nhà thì H và P đến, H nói với T “Cho em hai trăm” T hiểu H muốn mua ma túy với giá 200.000 đồng, T đồng ý. tiền và vào nhà lấy 02 gói Hêrôin (Heroin) đưa cho Phong, H rủ T “Cho em chơi với” nhưng T không đồng ý. Ngay sau khi nghe có người tri hô “Công an” T liền bỏ chạy lấy số tiền 200.000 đồng rồi bán ma túy cho H và Phong. Ngoài ra, T khai nhận còn bán cho H và P 200.000 đồng tiền ma túy vào khoảng 11h30 ngày 23/9/2021 tại nhà T. Số ma túy mà T bán cho H và P là do T. mua của một nhà ở TP. Thôn Kim Tỉnh, xã T.Thèm, TP Phổ Yên vào ngày 20/9/2021 với giá 500.000 đồng, sau đó mang về nhà chia thành 06 gói nhỏ, T. sử dụng hết 02 gói còn lại 04 gói T. bán cho H và P. T khai nhận đều phù hợp với lời khai của H, P và các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong hồ sơ. Tại Cáo trạng số 33/CT-VKSPY ngày 25/01/2022, Viện kiểm sát nhân dân xã P Y, tỉnh TN truy tố bị can Vũ Văn T2 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, c khoản 2 Điều 251 BLHS.
Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra và tài liệu thu giữ.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phổ Yên giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo, đề nghị Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo Vũ Văn T2 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Đề nghị áp dụng điểm b, c khoản 2, khoản 5 Điều 251; tiết s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 BLHS xử phạt Vũ Văn T2 mức án từ 08 đến 09 năm tù.
Đề nghị phạt bổ sung đối với bị cáo từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng. Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu, tiêu hủy toàn bộ số thuốc thu giữ và bao bì kèm theo; Tịch thu sung vào ngân sách Ngân hàng Nhà nước số tiền 200.000 đồng Vũ Văn T đang cầm giữ; Vũ Văn T2 truy thu số tiền 200.000 đồng tiền bán ma túy vào ngày 23/9/2021.
Ngoài ra, còn tuyên miễn án phí đối với bị cáo và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Bị cáo không tranh cãi, cuối cùng bị cáo xin được hưởng mức án thấp hơn để sớm trở về với gia đình, hòa nhập cộng đồng và trở thành người có ích cho xã hội.
NHẬN XÉT CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào nội dung vụ án và các tài liệu có trong hồ sơ đã được phản đối tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có ý kiến ​​như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng: Trong quá trình điều tra, khởi tố của Cơ quan điều tra, Công an thành phố Phổ Yên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phổ Yên, Thanh tra viên. Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định. Trong quá trình điều tra, xét xử, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến, khiếu nại đối với hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Vì vậy, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: lời khai của bị cáo tại tòa là khách quan, phù hợp với tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra, hội đồng xét xử có đầy đủ lý do. Kết luận: Do bản thân là người nghiện ma túy nên Vũ Văn T2 đã mua ma túy tại nhà ở thôn N, xã T C, xã P Y, tỉnh TN về chia thành các gói nhỏ để bán lại cho các con nghiện khác đến mua để kiếm lời, trong đó có : Vào khoảng 11 giờ 30 phút ngày 23/9/2021, tại ngân hàng của mình, T bán cho Bùi Đức H và Dương Đức P 02 gói thuốc là 200.000 đồng, không, số thuốc này H và P đã tiêu thụ hết; Đến khoảng 11 giờ 30 phút ngày 25/9/2021, T tiếp tục bán cho H và P 02 gói ma túy loại Hêrôin, có tổng khối lượng 0,095 gam, thu lợi bất chính 200.000 đồng thì Công an thành phố P. Y. , tỉnh T N ập đến bắt giữ H và P, T lợi dụng sơ hở bỏ trốn. Đến 19h cùng ngày 25/9/2021, T đến Cơ quan điều tra khai nhận hành vi của mình.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội và đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b và c khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số 33/CT-VKSPY ngày 25/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phổ Yên truy tố bị cáo về tội danh và điều luật đã viện dẫn là có căn cứ.
"Điều 251. Tội mua bán trái phép chất ma túy 1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:...
(b) Phạm tội hai lần trở lên;

c) Dành cho 02 người trở lên...
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm Hnh nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”

[3] Xét tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của Hnh vi phạm tội, nguyên nhân, động cơ dẫn đến việc phạm tội, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Hnh vi phạm tội do bị cáo đã thực hiện thuộc loại tội rất nghiêm trọng, xâm phạm đến chính sách độc quyền của nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương và là mầm mống phát sinh các loại tội phạm khác, nên cần phải xử lý nghiêm bằng pháp luật hình sự nhằm mục đích răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.
Nguyên nhân, động cơ dẫn đến việc phạm tội do bị cáo thiếu rèn luyện, tu dưỡng nên đã mắc nghiện ma túy, để phục vụ cho nhu cầu bản thân và mục đích trục lợi bất chính, bị cáo đã thực hiện Hành vi phạm tội như đã nêu trên.
[4] Xét các yếu tố về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy rằng:

- Về nhân thân: Năm 2011, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Phổ Yên xử phạt 09 năm tù về tội Cố ý gây thương tích, đến ngày 31/8/2015 bị cáo được đặc xá. Đến thời điểm thực hiện Hành vi phạm tội lần này bị cáo đã chấp Hnh xong bản án và đương nhiên được xóa án tích, tuy nhiên Hội đồng xét xử nhận định bị cáo là người có nhân thân xấu. - Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, sau khi bị phát hiện, bị can bỏ trốn nhưng sau đó đến cơ quan điều tra đầu thú nên được áp dụng thêm một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS. .
- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu trách nhiệm về một trong các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
[5] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và các yếu tố nhân thân, Hội đồng xét xử kết luận cần áp dụng tiêu chuẩn trách nhiệm hình sự để nghiêm trị, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội đối với hành vi phạm tội. một thời hạn để cải tạo, giáo dục bị cáo bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, có tính răn đe, giáo dục phòng ngừa chung. Xét thấy, mức án mà đại diện cơ quan công tố đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp và được chấp nhận. [6] Về hình phạt bổ sung: bị cáo phạm tội nhằm mục đích thu lợi bất chính nên cần bổ sung hình phạt tiền phải nộp vào ngân sách nhà nước một khoản tiền nhất định.
[7] Việc xử lý liên quan đến vụ án: trong vụ án này còn có Bùi Đức H và Dương Đức P có hành vi mua thuốc của T vào ngày 23/9/2021 và ngày 25/9/2021 để sử dụng. Sau khi mua ma túy ngày 23/9/2021 H và P đã dùng hết, số ma túy T mua ngày 25/9/2021 có trọng lượng dưới 0,1 gam là chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm, cơ quan CSĐT tiến hành nâng cao nhận thức. hành động giáo dục cho H và P, khi thích hợp.
Bà Hoàng Thị P là vợ của Vũ Văn T, cùng sinh sống với T tại thôn N, xã T C, thị xã Phổ Yên. Tuy nhiên, bà Phương không biết việc T mua bán trái phép chất ma túy tại nhà mình nên cơ quan điều tra không xem xét, xử lý đích đáng. Về nguồn gốc số heroin, T cho biết mình mua của một nhà ở thôn Kim Tỉnh, xã T TH, TP Phổ Yên vào ngày 20/9/2021. Tuy nhiên, T không nhớ vị trí nhà và cũng không biết của ai. người bán ma túy cho anh ta nên Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ các thao tác sau.
[8] Về vật chứng vụ án: toàn bộ số thuốc của bị cáo bị thu giữ và bao bì kèm theo là hàng cấm lưu hành, không còn giá trị sử dụng nên phải tịch thu và tiêu hủy. Số tiền 200.000 đồng tạm giữ của Vũ Văn T2 là tiền bán ma túy ngày 25/9/2021 nên tịch thu sung ngân sách nhà nước. Ngoài ra, phải truy thu số tiền 200.000 đồng mà T đã bán ma túy cho H và P vào ngày 23/9/2021 để sung vào ngân sách nhà nước. [9] Về án phí và chi phí tố tụng: Bị cáo là người có tiền án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[10] Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì những lý do trên,

PHÁN QUYẾT

Theo quy định tại điểm b, c khoản 2, khoản 5 điều 251; Tiết 38; Tiết 47; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS;

Theo Điều 106, Điều 136, Điều 329, Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

Về “Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14” ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí thi hành án ;

Thông báo:

1. Về tội danh: Bị cáo Vũ Văn T2 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
2. Về hình phạt:

2.1. Về phần án chính: Tuyên phạt bị cáo Vũ Văn T2 08 (tám) năm tù, thời hạn chấp hành án phạt tù kể từ ngày 25/9/2021.
Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày để bảo đảm kết tội.
2.2. Về hình phạt bổ sung: Phạt bổ sung đối với bị cáo Vũ Văn T25.000.000 đồng sung ngân sách Ngân hàng Nhà nước.
3. Về xử lý:

- Tịch thu và tiêu hủy 01 P từ túi niêm phong P có dấu đỏ ký hiệu O, trả lại 0,035 gam mẫu O còn lại sau khi kiểm tra và đóng gói mẫu O; 01 bì P có dấu đỏ ký hiệu N có ghi việc hoàn trả 0,030 gam mẫu N còn lại sau khi giám định và đóng gói mẫu N; 01 P bì P có dấu đỏ ký hiệu K dùng cho mẫu lưu. - Tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 200.000 đồng tạm giữ của Vũ Văn T;

- Truy thu Vũ Văn T2 số tiền 200.000 đồng tương ứng với số tiền thu lợi bất chính từ việc bán ma túy ngày 23/9/2021.
(Thực trạng giống như Biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố Phổ Yên và Chi cục kiểm sát thi hành án dân sự thành phố Phổ Yên lập ngày 21/01/2022 và Ủy nhiệm chi số 11 ngày 26/01/2022 từ Công an, Công an TP Phổ Yên).
4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Vũ Văn T2 phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung vào ngân sách nhà nước.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo