TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 18/2021/HS-PT NGÀY 11/01/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC, TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC
Ngày 11 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 998/2020/HSPT ngày 17 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo Lê Trung Hvà các bị cáo khác do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 93/2020/HS-ST ngày 6/7/2020 của Tòa án nhân dân huyện Đ, thành phố Hà Nội.
Bị cáo có kháng cáo:
1. Lê Trung H, sinh năm 1977 tại Hà Nội; nơi cư trú Tổ 12, thị trấn Đ, huyện Đ, Thành phố Hà Nội; giới tính nam; quốc tịch Việt Nam; dân tộc Kinh; tôn giáo không; trình độ văn hóa 12/12; nghề nghiệp lao động tự do; con ông Lê Quang C (Đã chết) và bà Tôn Thị H; vợ là Dương Thị Q và có 02 con (con lớn sinh năm 2003, con nhỏ sinh năm 2007); tiền án, tiền sự không; bị bắt, tạm giữ từ ngày 26/02/2020; hủy bỏ biện pháp ngăn chặn ngày 06/3/2020; hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú - có mặt.
2. Đoàn Việt A, sinh năm 1983 tại Hà Nội; nơi cư trú Tổ 15, thị trấn Đ, huyện Đ, Thành phố Hà Nội; giới tính nam; quốc tịch Việt Nam; dân tộc Kinh; tôn giáo không; trình độ văn hóa 12/12; nghề nghiệp công nhân; con ông Đoàn Kim Đ và bà Bùi Thị H; vợ Khúc Thị Ng (Đã ly hôn) và có 02 con (con lớn sinh năm 2008, con nhỏ sinh năm 2010); tiền án, tiền sự không; bị bắt, tạm giữ từ ngày 26/02/2020; hủy bỏ biện pháp ngăn chặn ngày 29/02/2020; hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú - có mặt. 3. Lê Phú H1, sinh 1989 tại Hà Nội; trú tại thôn Đông, xã Tàm Xá, quận Đ, TP Hà Nội; giới tính nam; Tiếng Việt; Dân tộc Kinh; không tôn giáo; Trình độ văn hóa 12/12; nghề công nhân; Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, bị đình chỉ sinh hoạt Đảng theo Quyết định số 45/CV-ĐU ngày 11 tháng 6 năm 2020 của Đảng ủy Công ty Cổ phần Thiết bị điện D-JSC trực thuộc Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Hà Nội. ; con ông Lê Phú H và bà Hoàng Thị Th; vợ là Lê Thị Th và có 03 con (con lớn sinh năm 2014, con út sinh năm 2019); tiền án, tiền sự; bị bắt tạm giam từ ngày 26 tháng 02 năm 2020; hủy bỏ biện pháp ngăn chặn vào ngày 29 tháng 2 năm 2020; Hiện tại, bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú - có mặt.
4. Ngô Trung Ch, sinh 1985 tại Phú Thọ; Nơi cư trú Tổ 13 khu phố D, quận D, thành phố Hà Nội; giới tính nam; Tiếng Việt; Dân tộc Kinh; không tôn giáo; Trình độ văn hóa 12/12; nghề công nhân; ông Ngô Đức Th và bà Hoàng Thị D; vợ là Nguyễn Thị V và có 02 con (con lớn sinh năm 2015, con út sinh năm 2018); tiền án, tiền sự; bị tạm giữ từ ngày 26 tháng 2 năm 2020; hủy bỏ biện pháp ngăn chặn vào ngày 29 tháng 2 năm 2020; Hiện bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú - Cấm đi khỏi nơi cư trú.
5. Lê Đức Q, sinh năm 1991 tại Vĩnh Phúc; hộ khẩu thường trú thôn Giáp Trung, xã Đức Bác, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc; nơi ở hiện nay Tổ 13, thị trấn Đ, huyện Đ, Thành phố Hà Nội; giới tính nam; quốc tịch Việt Nam; dân tộc Kinh; tôn giáo không; trình độ văn hóa 12/12; nghề nghiệp công nhân; con ông Lê Đức V và bà Trần Thị T; vợ Nguyễn Thị Ngọc Ph và có 02 con (con lớn sinh năm 2015, con nhỏ sinh năm 2017); tiền án, tiền sự không; bị bắt, tạm giữ từ ngày 26/02/2020; hủy bỏ biện pháp ngăn chặn ngày 29/02/2020; hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú - Có mặt.
Ngoài ra, trong vụ án còn có 06 bị cáo khác không có kháng cáo và không bị kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ và Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân huyện Đ, Hà Nội thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 14 giờ 30 phút ngày 26/02/2020, tổ công tác của Công an huyện Đ phối hợp với Công an thị trấn Đ kiểm tra phát hiện bắt quả tang tại nhà Lê Trung H tại tổ 12, thị trấn Đ, huyện Đ, Hà Nội có các đối tượng Lê Trung H, Nguyễn Duy H, Đoàn Việt A, Lê Phú H1, Ngô Trung Ch, Lê Đức Q, Dương Văn Đ, Nguyễn Văn Đ1, Hoàng Thanh H, Trần Văn L, Khuất Quang Nguyễn Nghĩa H đang đánh bạc dưới hình thức “xóc đĩa” được thua bằng tiền. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, tạm giữ vật chứng và đưa các đối tượng trên về trụ sở làm rõ.
Vật chứng tạm giữ: Số tiền bắt quả tang thu dưới chiếu bạc là 10.000.000 đồng, tiền phế là 3.000.000 đồng và tiền thu trên người của các con bạc là 24.590.000 đồng, 01 bát sứ, 01 đĩa sứ, 04 quân vị được cắt bằng quân bài, 01 chăn vải, 01 bộ bài tú lơ khơ; 01 điện thoại di động của Nguyễn Văn Đ1, 02 điện thoại di động của Hoàng Thanh H, 01 điện thoại di động của Trần Văn L, 01 điện thoại di động của Ngô Trung Ch, 01 điện thoại di động của Khuất Quang Nguyễn Nghĩa H, 01 điện thoại di động của Đoàn Việt A, 01 điện thoại di động của Dương Văn Đ, 01 điện thoại di động của Lê Trung H, 01 điện thoại di động của Lê Đức Q, 01 điện thoại di động của Lê Phú H1, 01 điện thoại di động của Nguyễn Duy H. Kết quả khảo sát xác định:
Trung H sử dụng căn nhà của mình, chuẩn bị bộ bài tây, bát, đĩa rồi cho người khác mượn tiền để chơi để thu tiền lời.
Khoảng 13h ngày 26/02/2020, các bị cáo Trần Văn L, Nguyễn Văn D1, Dương Văn D, Đoàn Việt A, Ngô Trung Ch, Lê Phú H1, Lê Đức Q, Nguyễn Duy H, Hoàng Thanh H và Khuất Quang Nguyễn Nghĩa H đến ăn uống tại nhà hàng của bị can Lê Trung Hồ, tổ 12, khu phố D, quận D, thành phố Hà Nội. Trong lúc ăn, Hậu vay Lê Trung 5.000.000 đồng tiền mặt rồi chuyển cho Lê Trung H 5.000.000 đồng, ăn xong Hậu trả 2.100.000 đồng tiền ăn.
Sau đó, bị cáo Lê Trung Hr rủ Trần Văn L, Nguyễn Văn D1, Dương Văn D, Ngô Trung Ch, Đoàn Việt A, Khuất Quang Nguyễn Nghĩa H lên tầng trên nhà Lê Trung H chơi. Công Q ngủ ở tầng 3 còn Hậu, Hùng, Hải ngồi ở tầng 2. Bị cáo Lê Trung H trải chăn chuẩn bị sẵn bộ bài tây cho các bị cáo chơi. Các bị cáo Luân, Đạt, Đông, Chiến, Việt Anh, Nghĩa Hiếu thống nhất đánh “ba cây” và ngồi vòng tròn tạo thành 5 “cổng”. Bị cáo Lê Trung H đã “bế quan tỏa cảng” trên bị cáo Chiến 1 ván và ăn thua 200.000 đồng. Khi bị cáo Việt Anh làm “chương”, bị cáo Đồng nhận 400.000 đồng, Lê Trung H nhận 100.000 đồng tiền cá độ của Đồng và thua 100.000 đồng. Trong quá trình đánh “ba cây”, Lê Trung H cho Đạt vay 10.000.000 đồng tiền mặt để chơi hụi, Lê Trung H còn cắt lãi 500.000 đồng.
Thể thức chơi “ba cây” được quy định như sau: một bộ bài ba cây gồm 36 lá trong đó có bộ tứ Át, bộ tứ từ 2 đến 9, không sử dụng quân bài 10, J, Q, K. Mỗi người chơi. sẽ ngẫu nhiên nhận được 3 lá bài rồi cộng điểm lại. Nếu tổng điểm lớn hơn 10 thì chỉ tính đơn vị (20 điểm tính là 10). Nếu số điểm bằng nhau, mỗi thẻ của cả hai bên sẽ được so sánh. Đầu tiên bao gồm so sánh theo chất lượng theo thứ tự bàn cờ, cơ bắp, bánh pudding, tôm. Sau đó so sánh theo số bộ, lớn thắng nhỏ (trong trường hợp cụ thể, quân bài có quân Át là quân bài có bộ cao nhất). Những người chơi tự thỏa thuận với nhau để chọn một người làm "chương". Người khác sẽ so điểm với “chương”, nếu điểm thấp hơn sẽ thua cược, nếu điểm cao hơn sẽ thắng cược. Nếu một người chơi được 10 điểm, anh ta sẽ làm chương (đánh cắp chương). Trong mỗi ván, người chơi được phép “đánh cửa” (đặt cược cùng ván bài) với một người chơi khác. Khi người “mở cửa” có điểm cao hơn người “chương” thì sẽ thắng. Ngoài ra, người chơi có thể thách đấu người chơi khác bằng một số tiền, người thách đấu có số điểm cao nhất sẽ nhận được số tiền đó. Người chơi thỏa thuận 1 ván, mức đặt cược thấp nhất là 100.000 đồng.
Khoảng 13h20 cùng ngày, bị cáo Quang thức dậy, các bị cáo Hậu, Hùng, Hải lên tầng 3 rủ mọi người chơi “Xóc đĩa”. Bị cáo Lê Trung H đã đưa 01 bộ bát đĩa và 01 cây kéo cho Bị cáo Hậu để hạ quân hàm 01 thẻ cào. Bị cáo Hùng “xê đồng hồ cúc cu” cho các bị cáo L, D1, D, Ch, Việt A, H1, Q, H, H2, Nghĩa H tham gia chơi hụi, Trung H yêu cầu H1 thu của mỗi người chơi 300.000 đồng, tổng cộng số tiền rác nhặt được khoảng 3.000.000 đồng, H1 đưa hết cho Lê Trung H. Trong quá trình quay đĩa, Lê Trung H tiếp tục cho bị cáo H2 vay 10.000.000 đồng (H cắt lãi 500.000 đồng/10.000.000 đồng), bị cáo Việt cho Việt vay. A cho 10.000.000 VND (không cắt lãi), cho hậu vệ vay 5.000.000 VND (không cắt lãi) để chơi. Các bị cáo đã không kiểm soát được mức độ giết người và hình phạt, việc đặt tiền vào cửa ngang giá tùy tiện, tính toán lãi lỗ giữa mình với người. Thể thức chơi “bóng đá xóc đĩa” được quy định như sau: người chơi ngồi thành hai hàng, tay phải của nhà cái là bên chẵn, tay trái của nhà cái là bên lẻ. Người xóc đĩa đặt 04 quân xóc đĩa lên bàn, lật úp bát xóc đĩa rồi đặt lên chiếu bạc. Người chơi không kiểm soát mức sát phạt, đặt tiền vào cửa chẵn lẻ tùy ý. Căn cứ vào số tiền đặt cược của người chơi, nhà cái có thể “cân” tất cả các cược lẻ, cược đôi (trong trường hợp này, nhà cái sẽ chịu trách nhiệm thu và chi cả 2 bên chẵn lẻ, người chơi không được chơi thêm cược khi nhà cái đã “cân” nhưng chỉ được cược trực tiếp với nhau, số tiền người chơi trực tiếp với nhau sẽ thanh toán thắng thua cho nhau, không liên quan đến xóc cái); Nhà cái có thể có thêm tiền cược để người chơi chấp nhận đặt cược hoặc chỉ chấp nhận đặt cược chẵn hoặc lẻ cho một bên và không nhận cược cho bên còn lại. Khi không có ai đặt cược thêm, người chia bài (hoặc người được chọn) sẽ mở bát để tính thắng thua. Nếu có 04 hoặc 02 quân xóc trên cùng một mặt và 02 quân bài còn lại trên cùng một mặt là chẵn thì người chơi đặt cược chẵn thắng, người chơi cược lẻ thua; Nếu có 3 lần xuất hiện trên cùng một mặt và 1 lần xuất hiện ở bên kia là lẻ, người chơi đặt cược lẻ sẽ thắng và người chơi đặt cược chẵn sẽ thua. Người chơi lấy cược của bên thua và trả cho bên thắng theo tỷ lệ 1:1, sau khi trả tiền trúng số còn lại, người chơi xóc đĩa được hưởng, nếu không trả đủ thì chơi xóc đĩa sẽ bồi thường đủ số tiền của mình, sau đó giữ lại làm rung chuyển bảng tiếp theo.
Các bị cáo chơi đến khoảng 14h30 cùng ngày thì bị công an bắt quả tang. Tại cơ quan điều tra, các bị cáo khai nhận hành vi tổ chức đánh bạc mang tính may rủi phù hợp với tài liệu điều tra thu thập được.
- Thế Trung H khai: đồng ý cho người chơi đến chơi tại nhà mình, chuẩn bị dụng cụ đánh bài ba lá và xúc xắc, nhờ bị cáo Hậu thu hộ khoảng 3.000 đồng của người chơi đánh bài xì tố. 000 đồng, người chơi mất 300.000 đồng. Ngoài ra, Lê Trung H còn dàn xếp cho các đối tượng vay tiền để đánh bạc, cụ thể: cho bị cáo Đạt vay 10.000.000 đồng (đã chiết khấu 500.000 đồng); cho bị cáo Việt Anh vay 10.000.000 đồng (không giảm lãi), cho bị cáo Đông vay 5.000.000 đồng (không giảm lãi), cho bị cáo Hoàng Thanh H vay 10.000.000 đồng (giảm 500.000 đồng).
- Đoàn Việt A khai: Mang 2.000.000 đồng đến nhà Lê Trung H chơi, tham gia đánh bạc bằng hình thức chơi “ba cây” và thua hết tiền. Khi chuyển sang chơi "đá đĩa", Việt Anhvay của Lê Trung H10.000.000 không nhớ thắng thua. Khi bị bắt thì bị tạm giữ 3.000.000đ - Lê Phú H1 khai: Mang 300.000đ đưa cho Lê Trung H chơi, sau đó chuyển vào tài khoản của Lê Trung H 5.000.000đ lấy 5.000.000đ tiền mặt Lê Trung H trả khoảng 2.100.000đ đồng, còn lại chơi khoảng 3.200.000 đồng, anh Lê Trung H nộp 300.000 đồng, không nhớ chơi bao nhiêu ván, thắng khoảng 600.000 đồng. Khi bị bắt, anh ta bị tạm giữ hơn 3.500.000 đồng. - Ngô Trung Ch khai: Đưa 2.900.000 đồng cho Lê Trung H chơi, tham gia đánh bạc bằng hình thức “ba cây”, không nhớ đã chơi bao nhiêu ván, thua đến 1 500.000 đồng. Sau đó tham gia chơi trò “cào đĩa”, nộp cho Lê Trung H300.000 đồng. Khi bị bắt, anh ta bị tạm giữ hơn 2.000.000 đồng.
- Lê Đức Q khai: mang 4.200.000đ cho Lê Trung H chơi, không lãng phí, khi bị bắt quả tang 200.000đ, tạm giữ hơn 4.000.000đ - Nguyễn Duy H khai: đi một mình đến Lê Trung H chơi theo hình thức “cào đĩa”, bị cáo Hải vay 2.000.000 đồng và trả cho Lê Trung H 300.000 đồng. Khi bị bắt, Hải thu được khoảng 200.000 đồng, tạm giữ 1.900.000 đồng. - Dương Văn khai: mang 1.000.000 đồng đến nhà Lê Trung H chơi, khi chơi theo hình thức “ba cây” không phân định thắng thua. Sau đó, Anh vay của Lê Trung H 5.000.000 đồng và trả cho Lê Trung H 300.000 đồng, khi bị bắt anh H. mất 3.000.000 đồng, tạm giữ 3.000.000 đồng.
- Nguyễn Văn D1 khai: Mang 200.000 đồng đến nhà Lê Trung H chơi. Sau đó, Lê Trung vay của H10.000.000 đồng để chơi theo hình thức “ba cây”, thua khoảng 6.000.000 đồng. Sau đó, H. tham gia “đá đĩa” và nộp cho Lê Trung H 300.000 đồng. Khi bị bắt, H. thua khoảng 1.000.000 đồng, tạm giữ 2.500.000 đồng.
- Hoàng Thanh H khai: Mang 700.000 đồng đến nhà Lê Trung H chơi. Sau đó, anh ta mượn Lê Trung H 10.000.000 đồng, không nhớ thắng thua và trả cho Lê Trung H 300.000 đồng. Khi bị bắt, anh ta thu giữ trên người 4.600.000 đồng. - Trần Văn L khai: Mang 1.800.000 đồng đến nhà Lê Trung H chơi. Khi trúng “ba cây” kiếm được 500.000 đồng. Sau đó, anh ta tham gia chơi “đá đĩa” và trả cho Lê Trung H 300.000 đồng. Khi bị bắt, anh ta không có tiền trong người.
- Khuất Quang Nguyễn Nghĩa H khai: Đưa 690.000 đồng cho Lê Trung H chơi, khi đánh “ba cây” trúng được khoảng 100.000 đồng. Sau đó đánh “Xóc đĩa” thua 700.000 đồng chưa trả. Khi bị bắt, anh ta bị tạm giữ hơn 90.000 đồng.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 93/2020/HSST ngày 06/7/2020 của Tòa án nhân dân quận D, thành phố Hà Nội xét xử:
Tuyên bố: Bị cáo Lê Trung H phạm tội: tổ chức đánh bạc và gá bạc. Các bị cáo Đoàn Việt A, Lê Phú H1, Ngô Trung Ch, Lê Đức Q, Nguyễn Duy H, Dương Văn D, Nguyễn Văn D1, Hoàng Thanh H, Trần Văn L và Khuất Quang Nguyễn Nghĩa H phạm tội: 'Đánh bạc' bằng tiền.
áp dụng tiết c khoản 1 Điều 322; Khoản 1 Điều 321. Điểm khoản 1, khoản 2, Điều 1, Điều 38, BLHS, Hình phạt:
Lê Trung H18 (Mười tám) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc ăn tiền”; 12 (mười hai) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Tổng hình phạt buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của 02 tội là 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành án phạt tù kể từ ngày thi hành án, trừ thời gian tạm giam trước khi xét xử từ ngày 26 tháng 2 năm 2020 đến ngày 06 tháng 3 năm 2020.
Căn cứ khoản 1 Điều 321, tiết i khoản 1 mục 1 Điều 38 BLHS, hình phạt:
Đoàn Viết Tới 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn thi hành án phạt tù kể từ ngày thi hành án, trừ thời gian tạm giam trước khi xét xử từ ngày 26 tháng 2 năm 2020 đến ngày 29 tháng 2 năm 2020.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 321, mục i, khoản 1, khoản 2, điều 1, điều 38 của bộ luật hình sự, hình phạt:
Lê Phú H1 11 (mười một) tháng tù. Thời hạn chấp hành án phạt tù kể từ ngày thi hành án, trừ thời gian tạm giam trước khi xét xử từ ngày 26 tháng 2 năm 2020 đến ngày 29 tháng 2 năm 2020.
Công tước Q 10 (mười) tháng tù. Thời hạn chấp hành án phạt tù kể từ ngày thi hành án, trừ thời gian tạm giam trước khi xét xử từ ngày 26 tháng 2 năm 2020 đến ngày 29 tháng 2 năm 2020.
Ngô Trung Ch 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành án phạt tù kể từ ngày thi hành án, trừ thời gian tạm giam trước khi xét xử từ ngày 26 tháng 2 năm 2020 đến ngày 29 tháng 2 năm 2020. Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về hình phạt phải áp dụng đối với bị cáo và các bị cáo khác, về việc xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của những người tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật . .
Ngày 06/7/2020, bị cáo Ngô Trung Ch có đơn kháng cáo xin giảm án và xin được hưởng án treo.
Ngày 08/7/2020, bị cáo Đoàn Việt A và Lê Đức Q có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ và cho hưởng án treo.
Ngày 13/7/2020, bị cáo Lê Trung H có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và đề nghị được hưởng án treo.
Ngày 14/7/2020, bị cáo Lê Phú H1 có đơn kháng cáo xin giảm án, xin được ở lại. Đối với Tòa phúc thẩm:
Các bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét khoan hồng cho bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào lời khai của các bị cáo; lời khai của những người liên quan; Biên bản thu giữ tang vật và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ đủ cơ sở để kết luận Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Lê Trung H về các tội “tổ chức đánh bạc và trò chơi có thưởng”. " phù hợp với quy định của pháp luật. quy định tại điểm c khoản 1 Điều 322 và khoản 1 Điều 321 của BLHS 2015; các bị cáo khác về tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 BLHS năm 2015 là có căn cứ, hợp pháp.
Xét kháng cáo của Bị cáo Lê Trung H cho thấy: Bị cáo đồng ý cho người chơi chơi tại nhà, chuẩn bị dụng cụ chơi bài ba lá và xúc xắc, nhờ Bị cáo Hậu đi thu gom rác của người chơi. Ngoài ra, bị cáo còn có hành vi đánh bạc và tổ chức cho các con bạc vay tiền để họ đánh bạc. Tại phần tuyên án, Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo tù có thời hạn và không cho bị cáo hưởng án treo. Tuy nhiên, xét những người chơi do bị cáo tổ chức chơi với quy mô nhỏ, số tiền các đối tượng sử dụng để chơi không lớn; bản thân bị cáo sử dụng tiền để đánh bạc không lớn. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, mức án 30 tháng tù mà Hội đồng xét xử tuyên đối với bị cáo về tội “tổ chức” được coi là bỏ lọt tội phạm. cờ bạc” và “Cờ bạc” có phần nghiêm ngặt. Do đó, có cơ sở để giảm nhẹ một phần mức án cho bị cáo. Do bị cáo phạm 2 tội nên theo quy định của pháp luật, bị cáo không đủ điều kiện để được hưởng án treo.
Xét đơn kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo Đoàn Việt A, Lê Phú H1, Ngô Trung Ch và Lê Đức Q, xét thấy: Đối với bị cáo Đoàn Việt A, căn cứ vào mức độ phạm tội, nhân thân và các tội danh khác. trường hợp. mức án mà cấp sơ thẩm tuyên phạt bị cáo 12 tháng tù mà cấp sơ thẩm xét thấy đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc. Do đó, có cơ sở để giảm nhẹ một phần mức án cho bị cáo. Vì bị cáo là người dùng nhiều tiền nhất để đánh bạc nên để răn đe bị cáo và phòng ngừa tội phạm nói chung, việc tòa xét xử không cho bị cáo được hưởng án treo là đúng. Vì vậy, không có lý do gì để chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo.
Đối với bị cáo Lê Phú H1, Ngô Trung Ch và Lê Đức Q: Bị cáo phạm tội ở mức độ nhất định, dùng số tiền nhỏ để đánh bạc; các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015; nhân thân không có tiền án tiền sự, bị can có nơi cư trú rõ ràng, cụ thể. Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo, xét thấy các bị cáo đủ điều kiện để được hưởng án treo theo quy định của pháp luật. Theo đó, cần chấp nhận yêu cầu kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo.
Từ phần tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c, e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Hiếu, xử phạt bị cáo Hiếu mức án 12 tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”, 8 tháng tù về tội “Đánh bạc”, tổng hợp hình phạt chung của hai tội, buộc bị cáo chấp hành là 20 tháng tù; xử phạt bị cáo Đoàn Việt A 10 tháng tù; chấp nhận kháng cáo xin được hưởng án treo của các bị cáo Lê Phú H1, Ngô Trung Ch và Lê Đức Q, giữ nguyên mức hình phạt tù nhưng cho các bị cáo được hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách đối với các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Về tố tụng: Kháng cáo của các bị cáo trong hạn luật định nên hợp lệ được chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
Về nội dung: Căn cứ lời khai của các bị cáo; lời khai của những người liên quan; biên bản thu giữ tang vật và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận: Khoảng từ 13 giờ 00 phút đến 14 giờ 30 phút ngày 26/02/2020, Lê Trung Hđã tổ chức cho các bị cáo Trần Văn L, Nguyễn Văn Đ1, Dương Văn Đ, Đoàn Việt A, Ngô Trung Ch, Lê Phú H1, Lê Đức Q, Nguyễn Duy H, Hoàng Thanh H và Khuất Quang Nguyễn Nghĩa H đã có hành vi đánh bạc bằng hình thức đánh „„Ba cây‟‟ và đánh „„Xóc đĩa‟‟ tại nhà mình. Lê Trung H chuẩn bị bộ bài tú lơ khơ, bát sứ, đĩa sứ, chăn. Đồng thời cho các con bạc khác vay tiền để đánh bạc, hưởng lợi bằng việc cắt luôn tiền lãi; đồng thời thu phế của các con bạc. Ngoài ra, Lê Trung H còn trực tiếp đánh bạc với các bị cáo khác nhưng sau đó đã bị Công an huyện D bắt quả tang. Tổng số tiền các bị cáo dùng để đánh bạc là 37.590.000 đồng. Số tiền mà bị cáo Lê Trung H được hưởng là 3.000.000 đồng. Với hành vi trên, Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Lê Trung H về các tội “Tổ chức đánh bạc” và “Đánh bạc” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 322 và khoản 1 Điều 321 của bộ luật hình sự năm 2015. mã. ; Các bị cáo Đoàn Việt A, Ngô Trung Ch, Lê Phú H1, Lê Đức Q và các bị cáo khác bị truy tố về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 BLHS 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.
Hành vi phạm tội của các bị cáo đã trực tiếp phá hoại trật tự công cộng, nếp sống văn minh, văn hóa, ảnh hưởng tiêu cực đến an ninh trật tự trên địa bàn Thủ đô. Các bị cáo là người có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, biết đánh bạc và gá bạc dưới mọi hình thức bị nhà nước nghiêm cấm nhưng do lòng tham và ý thức coi thường pháp luật nên các bị cáo vẫn phạm tội. Vì vậy, cần phải có mức hình phạt cần thiết để giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa tội phạm nói chung.
Xét đơn kháng cáo của Bị cáo Lê Trung H cho thấy: Bị cáo cho người chơi tại nhà mình, chuẩn bị bộ bài tây, bát, đĩa là dụng cụ để chơi bài ba lá, xúc xắc, nhờ các bị cáo. sau khi thu tiền rác của người chơi đánh bài, ngoài ra, bị cáo còn sử dụng số tiền 300.000 đồng để đánh bạc và cho người chơi vay tiền. Khi tuyên án, Hội đồng xét xử đã tuyên phạt tù có thời hạn, tuyên phạt bị cáo 12 tháng tù về tội “Đánh bạc” và không cho bị cáo hưởng án treo. Đối với tội “Tổ chức đánh bạc”, bị cáo Hiếu tổ chức cho các bị cáo khác đánh bạc với quy mô nhỏ, số tiền đánh bạc không lớn. Tùy theo tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức án 18 tháng tù mà Hội đồng xét xử tuyên phạt đối với bị cáo về tội “Tổ chức đánh bạc” là có phần nghiêm khắc. Do đó, có cơ sở để giảm nhẹ một phần mức án cho bị cáo. Do bị cáo phạm nhiều tội nên theo quy định của pháp luật, bị cáo không đủ điều kiện để được hưởng án treo.
Xét kháng cáo của các bị cáo Đoàn Việt A, Lê Phú H1, Ngô Trung Ch và Lê Đức Q, kết luận: Các bị cáo phạm tội chỉ là đồng phạm, tự nảy sinh ý định phạm tội và tiếp tục nhận. người kia sẵn sàng say mê trò chơi; các bị cáo dùng số tiền nhỏ để đánh bạc. Các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 như: Chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu và thuộc tình tiết ít nghiêm trọng sau đây; Sau khi phạm tội, anh ta đã thành khẩn khai báo và thực sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Các bị cáo đều là công nhân của Tổng công ty thiết bị điện D, phạm tội tạm thời, có hoàn cảnh gia đình khó khăn, hiện có HKTT cụ thể, rõ ràng; các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo, xét thấy các bị cáo đủ điều kiện để được hưởng án treo theo quy định của pháp luật. Vì vậy, chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Đoàn Việt A, Lê Phú H1, Ngô Trung Ch và Lê Đức Q, giữ nguyên hình phạt tù nhưng cho các bị cáo hưởng án treo và có thời gian thử thách đối với các bị cáo.
Về án phí: Bị cáo được phép kháng cáo nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Vì những lý do trên,
PHÁN QUYẾT
Theo điểm b khoản 1 điều 3; Tiết e khoản 1 Điều 37 Bộ luật tố tụng hình sự
[Đầu tiên]. Cho phép một phần kháng cáo của Bị đơn, giữ nguyên:
áp dụng tiết c khoản 1 Điều 322; Khoản 1 Điều 321 Điểm Khoản 1 Khoản 2 Khoản 1 Điều 38 BLHS 2015 phạt:
Lê Trung H12 tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”; 12 (mười hai) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Tổng hình phạt buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của 02 tội là 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành án phạt tù kể từ ngày thi hành án, trừ thời gian tạm giam trước khi xét xử từ ngày 26 tháng 2 năm 2020 đến ngày 06 tháng 3 năm 2020.
áp dụng khoản 1 Điều 321. Tiết i khoản 1, khoản 2 Điều 1 Điều 58; Tiết 38; Điều 65 BLHS 2015, phạt tiền:
- Đoàn Việt A 12 (mười hai) tháng tù về tội “Đánh bạc” nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 24 tháng kể từ ngày tuyên bản án phúc thẩm. Giao bị cáo cho UBND thị trấn Đ, huyện Đ, TP Hà Nội giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.
- Thế Phú H1 11 (mười một) tháng tù về tội “Đánh bạc” nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 22 tháng kể từ ngày tuyên bản án phúc thẩm. Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân xã Tàm Xá, huyện D, thành phố Hà Nội giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. - Ngô Trung Ch 09 (Chín) tháng tù về tội “Đánh bạc” nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 18 tháng kể từ ngày tuyên bản án phúc thẩm. Giao bị cáo cho UBND thị trấn Đ, huyện Đ, TP Hà Nội giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.
- Công Q 10 (mười) tháng tù về tội “Đánh bạc” nhưng cho hưởng án treo. Thời hạn thử thách là 20 tháng kể từ ngày tuyên bản án phúc thẩm. Giao bị cáo cho UBND thị trấn Đ, huyện Đ, TP Hà Nội giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ của mình theo quy định của Luật thi hành án hình sự quá hai lần thì Toà án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo chấp hành hình phạt tù. câu.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì phải chấp hành các quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
[2]. Về án phí: áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH ngày 12 ngày 27 tháng 02 năm 2009 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về Án phí, Lệ phí Tòa án; Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội sửa đổi mức thu, miễn, giảm, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí, lệ phí tư pháp. Các bị cáo Lê Trung H, Đoàn Việt A, Ngô Trung Ch, Lê Phú H1, Lê Đức Q không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[3]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng cáo, kháng nghị đương nhiên có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày 11/01/2021.

Bản án đánh bạc xóc đĩa
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 54/2022/HS-PT NGÀY 30/05/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC VÀ TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC
Ngày 30 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 37/TLPT-HS ngày 16/02/2022 đối với bị cáo Nguyễn Hoàng T và đồng phạm, do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 175/2021/HS-ST ngày 15/12/2021 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.
- Bị cáo kháng cáo:
1. Nguyễn Hoàng T, sinh năm 1981 tại tỉnh Lâm Đồng; nơi ĐKHKTT và cư trú: Thôn T, xã B, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: Lớp 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Xuân D (đã chết) và bà Vũ Thị L; vợ Nguyễn Thị Thùy L, sinh năm 1986 và có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2005, nhỏ nhất sinh năm 2013; tiền sự: không;
Tiền án: Bản án số 07/2018/HSST ngày 31/01/2018 bị Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 30 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”;
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 30/8/2020 đến ngày 05/9/2020 được thay thế biện pháp ngăn chặn, hiện đang tại ngoại (có mặt).
2. Phạm Hồng Th, sinh năm 1990 tại tỉnh Quảng Nam; nơi ĐKHKTT và cư trú: Số nhà 100, thôn Th, xã N, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: Lớp 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Hồng D, sinh năm 1961 và bà Võ Thị A, sinh năm 1966; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 30/8/2020 đến ngày 05/9/2020 được thay thế biện pháp ngăn chặn, hiện đang tại ngoại (vắng mặt). 3. Nguyễn Đình D, sinh 2001, quê Lâm Đồng; Địa điểm kinh tế và nơi cư trú: Thôn Thọ, xã N, huyện D, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Nông dân; Trình độ học vấn: lớp 9/12; Dân tộc Kinh; giới tính nam; không tôn giáo; Tiếng Việt; Các con ông Nguyễn Đình T, sinh năm 1967 và bà Đỗ Thị Q, sinh năm 1969; vợ con: Không có; tiền án: Không;
Bị cáo bị tạm giam từ ngày 30/8/2020 đến ngày 05/9/2020 thay cho biện pháp ngăn chặn, hiện tại ngoại (có mặt).
4. Nguyễn Thế Tr, SN 1994, quê Lâm Đồng; nơi đăng ký kinh tế và cư trú: Số nhà 147, thôn T, xã B, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Nông dân; Trình độ học vấn: lớp 6/12; Dân tộc Kinh; giới tính nam; đạo công giáo; Tiếng Việt; con ông Nguyễn Văn Th (đã chết) và bà Phạm Thị C, sinh năm 1965; vợ là Vũ Ngọc Ý, sinh năm 1994 và là mẹ của một bé sinh năm 2014; tiền án: Không;
Bị cáo bị tạm giam từ ngày 30/8/2020 đến ngày 05/9/2020 thay cho biện pháp ngăn chặn, hiện tại ngoại (có mặt).
5. Đỗ Đăng Đ1, sinh năm 1972 tại tỉnh Hà Nam; nơi ĐKHKTT và cư trú: Thôn Th, xã N, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: Lớp 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Đăng X (đã chết) và bà Phạm Thị P (đã chết); vợ Lê Hoài Th, sinh năm 1979 (đã ly hôn) và có 02 người con, lớn nhất sinh năm 1997, nhỏ nhất sinh năm 2003; tiền án, tiền sự: Không;
Nhân thân:
- Bản án số 67/2011/HSST ngày 17/8/2011 bị Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 15.000.000đ về tội “Đánh bạc”; bị cáo chấp hành xong vào ngày 05/7/2017;
- Quyết định số 969/QĐ-XPVPHC ngày 03/5/2019 bị Công an an huyện Đ1, tỉnh Lâm Đồng xử phạt về hành vi “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”;
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 30/8/2020 đến ngày 05/9/2020 được thay thế biện pháp ngăn chặn, hiện đang tại ngoại (có mặt).
6. Đỗ Thị Th1, sinh năm 1974 tại Thành phố Hà Nội; nơi ĐKHKTT và cư trú: Thôn Th, xã Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: Lớp 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch:
Việt Nam; con ông Đỗ Khắc Gi, sinh năm 1932 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1940 (đã chết); chồng, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 30/8/2020 đến ngày 05/9/2020 được thay thế biện pháp ngăn chặn, hiện đang tại ngoại (có mặt).
7. Võ Thị H, sinh năm 1975 tại tỉnh Lâm Đồng; nơi ĐKHKTT và cư trú: Số 11, tổ 3, thôn A, xã L, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: Lớp 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Nh, sinh năm 1929 (đã chết) và bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1932; chồng Trần Sơn T, sinh năm 1972 và có 02 người con, lớn nhất sinh năm 1996, nhỏ nhất sinh năm 2000; tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 30/8/2020 đến ngày 05/9/2020 được thay thế biện pháp ngăn chặn, hiện đang tại ngoại (có mặt).
Trong vụ án này còn có các bị cáo Trần Thị Bích Ch, Lê Thị Mỹ D không kháng cáo, không bị kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 16 giờ ngày 30/8/2020, Công an huyện Đ lập biên bản bắt người phạm tội quả tang tại vườn cà phê thuộc thôn Th, xã N, huyện Đ các đối tượng đang thực hiện hành vi đánh bạc bằng hình thức đánh xóc đĩa được thua bằng tiền mặt gồm: Nguyễn Hoàng T, Đỗ Đăng Đ1, Đỗ Thị Th1, Dương Thị Ng, Nguyễn Thị L, Lê Thị Mỹ D, Võ Thị H, Trần Thị Bích Ch, Phạm Hồng Th, Nguyễn Công Q, Dương Thị L1, Nguyễn Đình Đ, Nguyễn Minh Ng, Nguyễn Thế Tr.
Vào khoảng cuối tháng 8 năm 2020, Nguyễn Hoàng T không có công ăn việc làm nên nảy sinh ý định mở sòng bạc dưới hình thức xóc đĩa ăn tiền tại vườn cà phê thuộc xã N, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng và kêu gọi các con bạc đến tham gia chơi nhằm mục đích thu xâu. Thực hiện ý định đó nên vào cuối tháng khoảng thời gian từ ngày 25/8/2020, Nguyễn Hoàng T đứng ra tổ chức sòng bạc, phân công nhiệm vụ cụ thể như sau: Nguyễn Hoàng T thuê Nguyễn Đình Đ mang theo bạt cùng các vật dụng dùng cho việc đánh xóc đĩa đi tìm và chuẩn bị địa điểm để đánh bạc, Đ đã tìm được địa điểm tại vườn cà phê tại thôn Thái Sơn, xã N, huyện Đ rồi dọn dẹp mặt vườn, trải bạt để làm chỗ ngồi cho các con bạc ngồi đánh bạc, sau đó T kêu gọi các con bạc đến để đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa đồng thời cắt cử Nguyễn Đình Đ, Nguyễn Thế Tr làm nhiệm vụ đưa đón các con bạc vào địa điểm đánh bạc và trả công 200.000đ đến 300.000đ sau mỗi buổi. Đến 15 giờ cùng ngày các con bạc tập trung và cùng nhau đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa ăn thua trực tiếp bằng tiền mặt, T giao cho Phạm Hồng Th xóc các con vị để các con bạc căn cứ vào các mặt nổi lên của 4 con vị làm kết quả phân định thắng thua và trả công cho Th từ 200.000đ đến 400.000đ sau mỗi buổi. Đối với mỗi con bạc vào chơi, T thu của những người này số tiền 50.000đ đến 100.000đ, những con bạc nào thắng được số tiền lớn sẽ xâu cho T số tiền 200.000đ đến 300.000đ. Mỗi ngày sòng bạc này có khoảng 20 (hai mươi) người đến đánh bạc, thời gian hoạt động của sòng bạc khoảng 12 giờ đến khoảng 17 giờ cùng ngày thì kết thúc, Nguyễn Hoàng T là người đứng trước sòng bạc nhận xu . Sau khi lấy được tiền xâu, T trực tiếp chia tiền xâu cụ thể sau khi trừ các khoản chi phí gồm tiền thuê D tìm nhà trọ, thuê D và Tr trông giữ, bảo kê, đưa đón người chơi, thuê Th tiền ngồi xóc đĩa, còn lại bao nhiêu. , T lợi.
Sòng bạc do Nguyễn Hoàng T tổ chức hoạt động được 04 (bốn) ngày thì bị bắt quả tang, mỗi ngày sòng bạc hoạt động có trên 20 người đến chơi. Nguyễn Hoàng T, Phạm Hồng Th, Nguyễn Đình D tham gia tổ chức được 4 ngày, đến thứ Tư ngày 30/8/2020 thì bị bắt quả tang. Nguyễn Thế Tr tham gia tổ chức được 3 ngày thì đến ngày thứ 3 thì bị bắt quả tang. Cụ thể số tiền thu lợi bất chính từ hành vi tổ chức đánh bạc của các đối tượng như sau: Cho Nguyễn Hoàng T tổ chức sòng bạc trong 04 ngày, sau khi T đã thu tiền và trừ tiền thuê phòng của Th, D., còn lại Tr T thu lợi bất chính số tiền 4.200.000đ. Hiện số tiền này đã được sử dụng vào việc tiêu xài cá nhân nên T có nghĩa vụ nộp số tiền thu lợi bất hợp pháp là 4.200.000 đồng để sung vào ngân sách nhà nước. Đối với Phạm Hồng Th. anh ta đã thu lợi bất chính 900.000 đồng, nay số tiền này đã được anh ta sử dụng vào việc tiêu xài nên buộc anh ta phải nộp số tiền thu lợi bất chính 900.000 đồng để sung công quỹ nhà nước. Đối với Nguyễn Đình D đã thu lợi bất chính 700.000 đồng, nay số tiền này đã được anh ta sử dụng vào việc tiêu xài nên buộc anh ta phải nộp số tiền thu lợi bất chính 700.000 đồng để sung vào ngân sách nhà nước. . Đối với Nguyễn Thế Tr đã thu lợi bất chính 450.000 đồng, nay số tiền này đã được Tr sử dụng vào việc tiêu xài cá nhân nên buộc nộp số tiền thu lợi bất chính 450.000 đồng để sung vào ngân sách nhà nước. . Tang vật tịch thu được từ màn hình lớn:
- 01 cốc nhựa trắng, 01 đĩa sứ trắng, 04 quân bài đã cắt ra, 01 cục gỗ hình chữ nhật kích thước 5cm x 10cm x 3cm, 01 búa, 01 kéo cắt kim loại, 01 bộ bài Tây 52 lá, 01 bạt.
- Tiền thu trên chiếu bạc: 7.300.000 đồng.
Tịch thu tiền game của các đối tượng như sau:
- Thu giữ tại Đồ Đằng D1 số tiền 62.000.000 đồng, quá trình xác minh, số tiền chứng minh Đức đã sử dụng vào việc ăn chơi là 12.000.000 đồng, còn số tiền 50.000.000 đồng Đức khai nhận không phải do Đức mang theo. với việc trả tiền công bón phân và làm vườn cho Đức.
- Thu giữ của Đỗ Thị Th1 số tiền 400.000 đồng.
- Thu giữ của Võ Thị H số tiền 250.000đ. Như vậy, tổng số tiền tang vật đánh bạc thu giữ trong vụ án là 19.950.000 đồng.
Tịch thu phương tiện dùng để đánh bạc bao gồm:
- Thu giữ 01 điện thoại di động Iphone 6 màu vàng của Phạm Hồng Th.
- Thu giữ 01 điện thoại di động Iphone 6 màu vàng của Nguyễn Đình Đ.
- Thu giữ 01 máy tính xách tay Samsung J6 màu tím, 01 máy tính xách tay Iphone 5 màu xám của Nguyễn Hoàng T.
- Thu giữ 01 điện thoại di động Blue Maxx của Nguyễn Thế Tr.
- Thu giữ 01 xe mô tô biển số 92F6 - 4448 nhãn hiệu Blue Wave của Phạm Hồng Th và giao cho Nguyễn Đình D chở người chơi vào điểm game.
Hiện toàn bộ số tiền trên đã bị tịch thu, tang vật đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện D, tỉnh Lâm Đồng chuyển giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện D, tỉnh Lâm Đồng. Cơ quan CSĐT Công an huyện D, tỉnh Lâm Đồng cũng đã thu giữ:
- Số tiền Nguyễn Thị L thu giữ là 3.000.000 đồng.
- Số tiền Dương Thị Ng chiếm đoạt là 1.000.000 đồng.
- Số tiền thu giữ của Nguyễn Minh Ng là 1.100.000 đồng.
- Thu giữ của Nguyễn Công Q 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J8.
- Thu giữ tại Lê Thị M D 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J4. - Thu giữ 01 ĐTDĐ Nokia 1174 màu đen của Dương Minh Ng.
- Thu giữ 01 ĐTDĐ Nokia 1174 màu đen của Đỗ Thị Th1.
- Thu giữ của Dương Thị L1 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A6.
- Thu giữ của Nguyễn Thế Tr 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A20.
- Thu giữ 01 xe mô tô biển kiểm soát 49V5 - 4977 của Phạm Quốc H1. - Thu giữ xe máy Đỗ Đăng D1 01 đăng ký 49T4 - 1451.
Quá trình điều tra xác định số tiền, điện thoại di động và xe máy trên không liên quan đến hành vi đánh bạc hay gá bạc nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng đã ra quyết định số quyết định trả lại cho chủ sở hữu.
Ngoài ra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện D, tỉnh Lâm Đồng còn thu giữ:
- 01 điện thoại di động Samsung Galaxy A10 màu xanh.
- 01 điện thoại di động Nokia 1202 màu xanh.
- 01 xe máy kiểu Wave biển kiểm soát 49S8 - 1111. - 01 Xe máy kiểu Dream biển kiểm soát 49V2 - 2919.
Hiện chưa xác định được chủ sở hữu số tài sản trên nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng tạm tách, tiếp tục xác minh chủ sở hữu và quản lý sau.
Cáo trạng số 170/CT - VKS ngày 11/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện D, tỉnh Lâm Đồng truy tố các bị can Nguyễn Hoàng T, Phạm Hồng Th, Nguyễn Đình D và Nguyễn Thế Tr về tội “tổ chức đánh bạc ăn tiền” theo quy định tại điểm a khoản 1 điều 322 BLHS 2015; Các bị cáo Đỗ Đăng D1, Đỗ Thị Th1, Võ Thị H, Trần Thị Bích Ch, Lê Thị Mỹ D về tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 BLHS 2015.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 175/2021/HSST ngày 15/12/2021 của Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Lâm Đồng, tòa án đã tuyên:
1. Kết tội các bị cáo Nguyễn Hoàng T, Nguyễn Đình Đ, Nguyễn Thế Tr, Phạm Hồng Th về tội “Tổ chức đánh bạc”. - Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 322; Tiết 17; Tiết 38; tiết s khoản 1 Điều 51; điểm g và h khoản 1 Điều 52; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 tuyên phạt bị cáo Nguyễn Hoàng T 36 (ba mươi sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt và chấp hành xong bản án. Trừ thời gian tạm giam từ ngày 30 tháng 8 năm 2020 đến ngày 05 tháng 9 năm 2020 trong thời gian chấp hành án.
- Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 322; Tiết 17; Tiết 38; tiết s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 điều 52; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 tuyên phạt bị cáo Nguyễn Đình D mức án 24 (hai mươi tư) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt và chấp hành xong bản án. Trừ thời gian tạm giam từ ngày 30 tháng 8 năm 2020 đến ngày 05 tháng 9 năm 2020 trong thời gian chấp hành án.
- Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 322; Tiết 17; Tiết 38; tiết s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 điều 52; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 đã tuyên phạt bị cáo Nguyễn Thế Tr 24 (hai mươi tư) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt và chấp hành xong bản án. Giảm thời gian tạm giam từ ngày 30 tháng 8 năm 2020 đến ngày 05 tháng 9 năm 2020 trong thời gian thi hành án.
- Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 322; Tiết 17; Tiết 38; tiết s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 điều 52; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 tuyên phạt bị cáo Phạm Hồng Th mức án 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt và thi hành án. Giảm thời gian tạm giam từ ngày 30 tháng 8 năm 2020 đến ngày 05 tháng 9 năm 2020 trong thời gian thi hành án.
2. Kết tội các bị cáo Đỗ Đăng D1, Đỗ Thị Th1, Võ Thị H, Trần Thị Bích Ch và Lê Thị Mỹ D về tội “Đánh bạc”. - Áp dụng khoản 1 Điều 321; Tiết 17; Tiết 38; tiết s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Đỗ Đăng D1 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt để chấp hành án, trừ thời gian tạm giam tính từ ngày 30 tháng 8 năm 2020 đến ngày 30 tháng 8 năm 2020. Ngày 5 tháng 9 năm 2020 khi chấp hành án phạt tù.
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; Tiết 17; Tiết 38; điểm i và s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 tuyên phạt bị cáo Đỗ Thị Th1 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt và thi hành án ngày 05/9/2020 đến thời điểm chấp hành án.
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; Tiết 17; Tiết 38; điểm i và s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự 2015 xử phạt bị cáo Võ Thị H 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt đến ngày chấp hành án, trừ thời gian tạm giam từ tháng 8 trở đi. 30/2020 đến ngày bị bắt ngày 05/09/2020 thời điểm chấp hành án.
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; Tiết 17; Tiết 36; điểm i và s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Lê Thị Mỹ D 12 (mười hai) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan hoặc cơ quan có trách nhiệm giám sát, giáo dục nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Bị cáo Duyên được giao cho UBND xã Đông Thành, huyện L, tỉnh Lâm Đồng để giám sát, giáo dục. Gia đình bị can có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương giám sát, giáo dục bị can trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ.
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; Tiết 17; Tiết 36; điểm i và s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 tuyên phạt bị cáo Trần Thị Bích Ch 06 (sáu) tháng cải tạo không giam giữ. Việc trừ thời hạn tạm giam từ ngày 30 tháng 8 năm 2020 đến ngày 05 tháng 9 năm 2020 là 07 ngày tạm giam, tương đương với 21 ngày cải tạo không giam giữ. Thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan hoặc cơ quan có trách nhiệm giám sát, giáo dục nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.
Giao bị cáo Chi cho UBND thị trấn Liên Hiệp, huyện D, tỉnh Lâm Đồng giám sát, giáo dục, gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian cải tạo không giam giữ. 3. Về hình phạt bổ sung:
- Áp dụng khoản 3 Điều 322 BLHS xử phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Hoàng T, Nguyễn Đình D, Phạm Hồng Th, Nguyễn Thế Tr. Buộc các bị cáo Nguyễn Hoàng T, Nguyễn Đình D, Phạm Hồng Th và Nguyễn Thế Tr nộp ngân sách nhà nước mỗi người 20.000.000 đồng.
- Áp dụng khoản 3 Điều 321 BLHS hình phạt bổ sung đối với các bị cáo Đỗ Đăng D1, Đỗ Thị Th1, Võ Thị H, Trần Thị Bích Ch, Lê Thị Mỹ D. Buộc các bị cáo Đỗ Đăng D1, Đỗ Thị Th1, Võ Thị H, Trần Thị Bích Ch, Lê Thị Mỹ D mỗi người phải nộp 10.000.000 đồng sung quỹ nhà nước.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về phần khởi kiện, án phí và quyền kháng cáo. Ngày 20 tháng 12 năm 2021, các bị cáo Nguyễn Đình D, Võ Thị H, Phạm Hồng Th kháng cáo tuyên phạt hoặc cho hưởng án treo; Bị cáo Đỗ Đăng D1 kháng cáo xin giảm án.
Ngày 21/12/2021, bị cáo Đỗ Thị Th1 kháng cáo xin giảm án và cho hưởng án treo.
Ngày 23/12/2021, bị cáo Nguyễn Thế Tr kháng cáo xin được hưởng án treo. Ngày 24/12/2021, bị cáo Nguyễn Hoàng T kháng cáo xin giảm án.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo không phản đối bản án sơ thẩm, giữ nguyên kháng cáo xin giảm án, cho hưởng án treo hoặc phạt tiền.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng căn cứ Điều 351 của Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị xét xử vắng mặt bị cáo Phạm Hồng Th; căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Hoàng T, Phạm Hồng Th, Nguyễn Đình Đ, Nguyễn Thế Tr, Đỗ Đăng Đ1; đối với các bị cáo Đỗ Thị Th1, Võ Thị H có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội, đề nghị HĐXX áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, cho các bị cáo được hưởng án treo và áp dụng thời gian thử thách theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Bị cáo Phạm Hồng Th đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt, căn cứ Điều 351 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị cáo theo thủ tục chung.
[2] Xét đơn kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Hoàng T, Phạm Hồng Th, Nguyễn Đình Đ, Nguyễn Thế Tr, Đỗ Đăng Đ1, Đỗ Thị Th1, Võ Thị H gửi đến Toà án trong hạn luật định và đúng quy định nên thời hạn kháng cáo của các bị cáo là hợp lệ, nội dung kháng cáo của bị cáo T là xin giảm nhẹ hình phạt, các bị cáo khác là xin được hưởng án treo hoặc phạt tiền.
[3] Vào khoảng thời gian từ ngày 25/8/2020, Nguyễn Hoàng T đứng ra tổ chức sòng bạc, phân công nhiệm vụ cụ thể như sau: T thuê Nguyễn Đình Đ mang theo bạt cùng các vật dụng dùng cho việc đánh xóc đĩa đi tìm và chuẩn bị địa điểm để đánh bạc, Đ đã tìm được địa điểm tại vườn cà phê tại thôn Thái Sơn, xã N rồi dọn dẹp mặt vườn, trải bạt để làm chỗ để cho các con bạc ngồi đánh bạc. Sau đó T gọi các con bạc đến đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa, đồng thời cắt cử Nguyễn Đình Đ, Nguyễn Thế Tr làm nhiệm vụ đưa đón các con bạc vào địa điểm đánh bạc, thực hiện nhiệm vụ canh gác và trả công từ 200.000đ đến 300.000đ sau mỗi buổi. Đến 15h cùng ngày, các người chơi tụ tập chơi với nhau bằng hình thức xóc tài xỉu ăn thua trực tiếp bằng tiền mặt, T chỉ đạo Phạm Hồng Th xóc con để người chơi căn cứ vào mặt nổi của các quân bài. 4 em đưa ra kết quả để phân định thắng thua và trả cho Th từ 200.000 đồng đến 400.000 đồng sau mỗi buổi. Với mỗi người vào chơi, T thu của những người này số tiền từ 50.000 đồng đến 100.000 đồng, người chơi nào thắng số tiền lớn sẽ xâu cho T số tiền từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng.
Hàng ngày, sòng bạc này có khoảng 20 (hai mươi) người chơi đến tham gia đánh bạc, thời gian hoạt động của sòng bạc từ khoảng 12 giờ đến khoảng 17 giờ thì kết thúc cùng ngày.
Sòng bạc do Nguyễn Hoàng T tổ chức hoạt động được 04 (bốn) ngày thì bị cơ quan công an bắt quả tang. Mỗi ngày sòng hoạt động, có hơn 20 người đến chơi đến thứ 4 (30/8/2020) thì bị bắt quả tang. Tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm các bị cáo thành khẩn khai báo, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng đã xét xử. Tội phạm và hành vi thực hiện tội phạm của các bị cáo đã được bản án sơ thẩm phân tích, đánh giá và tuyên bố các bị cáo Nguyễn Hoàng T, Nguyễn Đình Đ, Nguyễn Thế Tr, Phạm Hồng Th phạm tội “Tổ chức đánh bạc” theo điểm a khoản 1 Điều 322 của Bộ luật Hình sự năm 2015; các bị cáo Đỗ Đăng Đ1, Đỗ Thị Th1, Võ Thị H phạm tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.
Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện sự xem thường pháp luật, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự tại địa phương. Khi quyết định hình phạt, bản án hình sự sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của các bị cáo và áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng T 36 (ba mươi sáu) tháng tù; bị cáo Nguyễn Đình Đ 24 (hai mươi bốn) tháng tù; bị cáo Nguyễn Thế Tr 24 (hai mươi bốn) tháng tù; bị cáo Phạm Hồng Th 18 (mười tám) tháng tù; bị cáo Đỗ Đăng Đ1 12 (mười hai) tháng tù; bị cáo Đỗ Thị Th1 06 (sáu) tháng tù; bị cáo Võ Thị H 06 (sáu) tháng tù là có căn cứ, thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm.
[4] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, xin được hưởng án treo, xin phạt tiền của các bị cáo: Hội đồng xét xử thấy rằng tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, xin được hưởng án treo hoặc phạt tiền nhưng không xuất trình tình tiết giảm nhẹ mới để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Mức án mà bản án sơ thẩm tuyên phạt đối với các bị cáo Thuận, D, Tr và Th là phù hợp, đủ sức răn đe, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa tội phạm nói chung. Tuy nhiên, đối với các bị cáo Đỗ Thị Th1, Võ Thị H có hành vi đánh bạc trong vụ án như các bị cáo Trần Thị Bích Ch, Lê Thị Mỹ D nhưng bản án xét xử lại áp dụng Điều 38 của Bộ Tư pháp. Thoan và Hóa quá nghiêm khắc, chưa phân biệt rõ tội phạm, chưa thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật trong đấu tranh phòng chống tội phạm. Do các bị cáo Th1, H có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, có nơi cư trú rõ ràng, công việc ổn định, nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, ở mức độ nhẹ. các trường hợp. Hội đồng xét xử xét thấy các bị cáo có đủ điều kiện áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 theo tinh thần “Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP” ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. chấp hành án treo. Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử đã bác kháng cáo của các bị cáo Thuận, D, Tr, Th, Đức; Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Đỗ Thị Th1, Võ Thị H sửa bản án xét xử đối với một phần của bản án. Tại phiên tòa phúc thẩm, kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng giữ quyền công tố đề nghị hội đồng xét xử áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 cho các bị cáo Đỗ Thị Th1 và Võ Thị H. được hưởng án treo . Hội đồng xét xử xét thấy đề nghị của đại diện cơ quan công tố là có công nên không cần cách ly các bị cáo Thôn và Hoa ra khỏi xã hội, điều này cũng có tác dụng cải tạo, giáo dục các bị cáo, phòng ngừa chung tội.
[6] Về án phí: Các bị cáo Nguyễn Hoàng T, Phạm Hồng Th, Nguyễn Đình D, Nguyễn Thế Tr, Đỗ Đăng D1 chịu án phí hình sự phúc thẩm; Các bị cáo Đỗ Thị Th1, Võ Thị H không phải chịu án phí tư pháp hình sự kháng cáo.
Vì những lý do trên,
PHÁN QUYẾT
Theo điểm a khoản 1 điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo xin giảm án, cho hưởng án treo của các bị cáo Nguyễn Hoàng T, Nguyễn Đình D, Nguyễn Thế Tr, Phạm Hồng Th, Đỗ Đăng D1. Theo điểm b khoản 1 điều 355; điểm đ khoản 1 điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự.
Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Đỗ Thị Th1, Võ Thị H, sửa bản án xét xử.
1. Về tội phạm:
Kết án các bị cáo Nguyễn Hoàng T, Nguyễn Đình Đ, Nguyễn Thế Tr, “Phạm Hồng Th” về tội “Tổ chức đánh bạc ăn tiền”.
Truy tìm các bị cáo Đỗ Đăng D1, Đỗ Thị Th1, Võ Thị H phạm tội “Đánh bạc”. 2. Về hình phạt:
2.1. áp dụng tiết a khoản 1 Điều 322; Tiết 17; Tiết 38; tiết s khoản 1 Điều 51; điểm g và h khoản 1 Điều 52; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tuyên phạt bị cáo Nguyễn Hoàng T 36 (ba mươi sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt và chấp hành xong bản án. Trừ thời gian tạm giam trước khi xét xử từ ngày 30 tháng 8 năm 2020 đến ngày 05 tháng 9 năm 2020 trong thời gian thi hành án.
2.2. áp dụng tiết a khoản 1 Điều 322; Tiết 17; Tiết 38; tiết s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 điều 52; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015. Tuyên phạt bị cáo Trương Đình D 24 (hai mươi tư) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt và thi hành án. Trừ thời gian tạm giam trước khi xét xử từ ngày 30 tháng 8 năm 2020 đến ngày 05 tháng 9 năm 2020 trong thời gian thi hành án.
2.3. áp dụng tiết a khoản 1 Điều 322; Tiết 17; Tiết 38; tiết s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 điều 52; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tuyên phạt bị cáo Nguyễn Thế Tr 24 (hai mươi tư) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt và chấp hành án. Trừ thời gian tạm giam trước khi xét xử từ ngày 30 tháng 8 năm 2020 đến ngày 05 tháng 9 năm 2020 trong thời gian thi hành án. 2.4. áp dụng tiết a khoản 1 Điều 322; Tiết 17; Tiết 38; tiết s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 điều 52; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Phạm Hồng Th 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt và ngày chấp hành án. Trừ thời gian tạm giam trước khi xét xử từ ngày 30 tháng 8 năm 2020 đến ngày 05 tháng 9 năm 2020 trong thời gian thi hành án.
2.5. áp dụng khoản 1 Điều 321; Tiết 17; Tiết 38; tiết s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Đỗ Đăng D1 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt và chấp hành án, trừ thời gian tạm giữ từ ngày 30/8/2020 đến ngày 05/9 , 2020 tại thời điểm bị giam giữ. chấp hành án. 2.6. áp dụng khoản 1 Điều 321; Tiết 17; Tiết 38; điểm i và s khoản 1 Điều 51; Tiết 58; Điều 65 Bộ luật hình sự 2015.
Xử phạt các bị cáo Đỗ Thị Th1, Võ Thị H, mỗi bị cáo 06 (sáu) tháng tù treo, thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng kể từ ngày có quyết định kháng nghị (30/5/2022).
Giao bị cáo Đỗ Thị Th1 cho Ủy ban nhân dân xã D, huyện L, tỉnh Lâm Đồng nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Giao bị cáo Võ Thị H cho Uỷ ban nhân dân xã L, huyện D, tỉnh Lâm Đồng nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị can có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương giám sát, giáo dục bị can. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ của mình theo quy định của Luật thi hành án hình sự từ hai lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó chấp hành án phạt tù. ̉̉an treo. trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 BLHS 2015 , như đã sửa đổi. hoàn thành trong năm 2017. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì áp dụng quy định tại khoản 3 Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.
3. Về án phí: Theo quy định tại Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về Án phí, Lệ phí Tòa án Các bị cáo Nguyễn Hoàng T, Nguyễn Đình D, Nguyễn Thế Tr, Phạm Hồng Th, Đỗ Đăng D1, mỗi người phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm. 4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày được giao.
Nội dung bài viết:
Bình luận